“Chú Tư Cầu” LÊ XUYÊN

Nhà văn LÊ XUYÊN

TIỂU THUYẾT GIA

VĂN CHƯƠNG NAM BỘ

Viên Linh

Ðược bạn ra đề tài viết về “đồng quê miền Nam” Lê Xuyên viết truyện đầu tiên trong đời : Chú Tư Cầu.

Nhà văn Lê Xuyên mất khoảng 21:30 ngày 2/3/2004 tại Sài Gòn, hai ngày sau một cuộc họp mặt tưởng niệm đã được diễn ra trọng thể tại một hội trường ở Hoa Kỳ, với di ảnh người quá cố và một bình hoa bày trên diễn đàn, cùng rất đông văn nghệ sĩ trí thức, bạn đồng nghiệpnăm xưa, và thân hữu độc giả hâm mộ, đã tới nhắc nhở về anh, kể chuyện về anh, trong không khí trang nghiêm mà ấm áp.

Diễn giả Võ Long Triều, nguyên chủ nhiệm nhật báo Ðại Dân Tộc mà Lê Xuyên là tổng thư ký Tòa soạn, vừa cất tiếng đọc bài tưởng niệm “Lê Xuyên ơi !…” thì nghẹn ngào, không đọc được nữa, khiến nhà thơ Ðỗ Quí Toàn phải đọc thay. Lần lượt lên phát biểu có tác giả Viên Linh, từng viết truyện dài cho tờ Dân Ý khi Lê Xuyên cũng làm tổng thư ký, và các nhà văn Thảo Trường, ông Hoài Sơn, ký giả Vũ Ánh…

Người viết bài này những năm trước 1975 đã bốn lần phỏng vấn Lê Xuyên, mỗi lần phỏng vấn theo một đề tài riêng, không kể những cuộc trò chuyện vô đề, lúc này lúc khác, khi ở tờ báo này, lúc ở tòa soạn khác, hay nơi quán xá, hội trường câu lạc bộ báo chí, v.v… Trong những lần đó, đề tài “Tác phẩm đầu tay” là thú vị nhất.

Trong nghiệp văn, cho dù nổi tiếng đến đâu, hậu vận ra sao mặc lòng, đứa con đầu đời của một nhà văn – tức là tác phẩm đầu tay của nhà văn đó – hầu như chiếm một chỗ lớn nhất, đẹp nhất, trong trí tưởng của người sáng tạo ra nó. Trường hợp vào nghề của Lê Xuyên rất đẹp. Mà tác phầm đầu tay của ông, có thể nói là hiếm hoi, lại là tác phẩm nổi tiếng nhất, quan trọng nhất của ông.

Câu hỏi được đưa cho ông là một lá thư đánh máy gửi đi. Và câu trả lời của Lê Xuyên là một hai tờ giấy viết tay, gửi lại.

Nhà văn Lê Xuyên nói về tác phẩm “Chú Tư cầu”

“Chú Tư Cầu, một chuyện tình kể trong bốn bức tường nhà giam, hễ nghe ai đá động tới là tôi không được mấy yên bụng.

“Ý kiến, cảm tưởng của tôi về tác phẩm đầu tay ? Thật là khó nói. Vì việc tôi vào nghề báo cũng như viết truyện dài đầu tiên đăng trên nhựt báo, bất quá cũng chỉ là một vấn đề số mạng.

“Ðành rằng hồi còn nhỏ, hồi còn đi học tôi cũng thích làm văn, làm thơ, nhưng quả tình tôi không ngờ có ngày mình lọt được vô nghề này. Truyện dài đầu tay của tôi là ‘Chú Tư Cầu’ đăng trên nhựt báo ‘Sài Gòn Mai.’ Ðang thất nghiệp, tôi được anh Vương Hữu Ðức (lúc bấy giờ là tổng thư ký tòa soạn nhựt báo Sài Gòn Mai) gọi tới để làm phụ với anh, và cũng chính anh Ðức đã bảo tôi viết cho tờ S.M. một truyện dài ‘đồng quê miền Nam.’ Có lẽ vì tin tưởng phần nào ở tôi, và chắc do khiếu ‘đánh hơi’ nhà nghề nên anh Ðức chỉ ‘hạ lịnh’ vỏn vẹn cho tôi như thế. Và tôi bắt đầu viết ‘Chú Tư Cầu.’

“Cũng may là hồi còn kẹt trong tù, tôi được mấy anh em ở miệt quê kể cho nghe rất nhiều câu chuyện sống với đầy đủ tình tiết (mà Chú Tư Cầu là một) và trước khi bị kẹt, có một thời gian tôi về ẩn náu tại miền Tây, nên chụp vô chuyện Chú Tư Cầu là tôi viết phăng tới liền, chớ nếu không, thì ‘tang gia bối rối’ biết bao nhiêu !

“Giả sử lúc bấy giờ anh Ðức bảo tôi viết truyện gián điệp hay truyện ma gì đó, tôi cũng viết như thường. Như vậy chẳng do ‘phần số,’ chẳng do ‘thiên định’ là gì ?

“Chưa hết. Sau này, khi tôi viết truyện thứ ba hay thứ tư gì đó, trong một lúc ‘tâm tình cởi mở’ với tôi, ông chủ nhiệm S.M. có tiết lộ rằng hồi tôi mới bắt đầu viết truyện ‘Chú Tư Cầu,’ có người mấy lần khuyên ông nên ‘cúp’ truyện này để thay thế vào một truyện khác, nhưng ông không nghe. (nhưng chắc có lúc ông gần xiêu lòng !) Lời tiết lộ nầy (tuy rất ‘vô hại’) cũng đủ làm cho tôi muốn đổ mồ hôi hột. Giả sử ông chủ nhiệm chịu nghe lời khuyến cáo ấy ? – thì làm gì có trọn truyện ‘Chú Tư Cầu’ – cái được gọi là ‘tác phẩm đầu tay’ của tôi ! Và làm gì còn có Lê Xuyên trên cõi đời này !

“Tất cả chỉ là một thứ hên xui khá toát mồ hôi lạnh đối với một kẻ sống về nghề văn, nghề báo. Bởi vậy, ngày nay, hễ nghe ai đá động đến chuyện ‘tác phẩm đầu tay’ là tôi không được mấy ‘yên trong bụng.’ Ðời tôi, tôi còn phải đương đầu rất nhiều với sự hên xui kia mà ! Và bộ hên hoài được sao ?”

Trong phần trả lời, nhà văn Lê Xuyên có nhắc tới mấy chữ “hồi còn kẹt trong tù.” Ðộc giả có thể không rõ lắm, nếu không tìm hiểu thêm về ông.

Lê Xuyên tên thật Lê Bình Tăng, sinh năm 1927 tại Cần Thơ, hoạt động cầm súng chống Pháp từ trước năm 20 tuổi.

Ở tuổi có ý thức chính trị, ông tham gia đảng phái, cùng hoạt động chung, ở chung phòng với một đảng viên khác rất nổi tiếng là Phạm Thái. Người sau này từng xuất bản tờ báo tranh đấu có tên Tự Quyết ở Sài Gòn. Một nhà cách mạng lão thành khác của đảng Ðại Việt, là ông Hoài Sơn, có lên Diễn Ðàn hôm 5/3/2004 kể rằng Lê Xuyên người thì gầy gò nhỏ bé, nặng có hơn bốn mươi mấy ký lô, nhưng “nhận định thời cuộc rất sắc bén.” Tuy vậy ông ít nói. “Nếu Phạm Thái nói không ngừng, anh em trong phòng gọi là ‘máy nói,’ thì Lê Xuyên bị gọi là ‘máy câm.’”

Lê Xuyên, vì hoạt động đảng phái, nên ở tù thời gia đình trị Đệ Nhất Cộng Hòa miền Nam. Mãi 1960 mới được thả. Một nhà văn nói nhiều có khi chỉ viết được những cuốn sách mỏng; còn Lê Xuyên đã sản xuất những cuốn sách khoảng bảy, tám trăm trang. Không có cuốn truyện nào của ông mỏng hơn bốn trăm trang cả. Chú Tư Cầu: 907 trang. Ðêm Không Cùng: 639 trang. Rặng Trâm Bầu: 419 trang. Vợ Thầy Hương: 496 trang. Vùng Bão Lửa: 543 trang.

Nhà Văn Lê Xuyên

Những Ngày Cuối Đời

– Văn Quang

Gần 10 giờ đêm 2/3/2004, chị Lê Xuyên điện thoại cho tôi báo tin anh Lê Xuyên vừa mất lúc 9 giờ 20, tức là cách đó nửa giờ. Lời chị kèm theo rất chân tình :

– Tôi gọi cho anh trước khi gọi cho nhà đòn.

Tôi hiểu ý chị và phải nói tôi hiểu từ lâu mới đúng. Gia đình anh chị trong hoàn cảnh sinh sống rất khó khăn chật vật, vì thế nên tôi đã dặn chị trước : nếu có chuyện gì cần chị cứ gọi cho tôi. Tôi không tin vào tôi mà tin vào tình yêu thương của bạn bè từ khắp nơi luôn sẵn sàng giúp đỡ Lê Xuyên nên hứa ngay : Chị cứ lo mọi việc cho tang lễ của anh, còn chuyện khác để anh em chúng tôi lo. Chị vui vẻ :

– Nếu thế tôi an tâm rồi.

Buông điện thoại, tôi hoàn toàn không ngạc nhiên trước cái tin buồn này. Từ hai năm nay, Lê Xuyên nằm một chỗ, có thể nói thẳng nằm đó chờ ngày “về với ông bà”. Một năm trước đây thôi, anh phải vào bệnh viện, chị cũng gọi cho tôi, chị cho tôi xem giấy “nhập viện” của anh và số tiền phải trả. Tôi cũng lại làm cái nhiệm vụ thông báo cho một số anh em ở nước ngoài để kiếm tiền trả bệnh viện. Không phải chỉ có riêng chúng tôi mà còn những người quen khác của anh, những người bạn đồng hương, những người học cùng trường cùng lớp, có cả những người không hề quen biết cũng xúm nhau vào chung lo. Hầu như ai cũng hiểu rằng ngày “ra đi” của anh không xa. Nhưng may mắn, anh vẫn còn qua được vài mùa xuân. Những lần sau này tôi đến thăm anh, anh nằm đó nhưng tỉnh táo, không nói chuyện được song hỏi nhiều điều, anh vẫn nhớ, vẫn hiểu. Khi anh gật đầu, thỉnh thoảng có được một nụ cười, đôi mắt ánh lên một niềm vui. Nhất là khi tôi cố gợi lại một vài câu chuyện vớ vẩn từ hồi xa xưa chúng tôi gặp nhau ở ngoài đường hoặc ở toà soạn một vài tờ báo.

Để cho anh được sống lại với những kỷ niệm cũ, tôi kể lại một buổi sáng sớm vào khoảng năm 1971-72, sau một đêm đánh chắn với vợ chồng ông chủ báo Kịch Ảnh đường Cống Quỳnh, tôi lái xe về nhà. Qua đường Lê Lai, tôi thấy Lê Xuyên cúi đầu đi trên hè phố. Tôi đậu xe sát lại, Lê Xuyên vẫn chưa thèm nhận ra là xe của ai. Tôi bóp còi, lúc đó anh mới ngước lên nhìn và toét miệng cười. Ít khi ông Lê Xuyên cười lắm. Tôi đẩy cửa xe, thò đầu ra hỏi :

– Ăn sáng chưa ?

– Chưa… gì hết trọi, có tiền đâu mà ăn.

– Lên đây, tôi đưa ông đi ăn sáng.

Leo lên xe, anh hỏi thẳng :

– Đêm qua được hay thua ?

– Được.

– Nhà không còn một xu, tui để tiền trong túi cũng hết luôn.

Tôi cười và hiểu cái sự “hết tiền trong túi” của anh dù mới lãnh lương. Móc trong cóp xe, tôi chia cho anh một nửa số tiền được bạc đêm hôm qua và dặn dò rất kỹ :

– Mang về toà soạn cất vào ngăn kéo để tiêu dần đấy.

– Ừ, tốt. Ông ăn sáng chưa, cho tôi đi với. Lâu rồi không được ăn đồ Tây.

Tôi cười :

– Ra Givral hay Brodard, ông thích chỗ nào.

– Đâu cũng được.

Chúng tôi ra Givral, sáng sớm tinh mơ chỉ có hai bàn có khách. Tôi gọi mì jambon là món “đặc sản” ở đây còn Lê Xuyên gọi omelette jambon ngồi nhai bỏm bẻm lấy làm thú vị lắm. Ăn xong tôi bảo ông có tiền rồi, lấy xe taxi về toà soạn, tôi phải về nhà thay quần áo rồi còn vào phải vào sở chào cờ vì hôm nay là sáng thứ hai. Lê Xuyên cười hì hì :

– Cả đời tôi chưa biết chào cờ là cái gì. Tôi chỉ chào ông chủ báo khi lần đầu tiên đến làm. Ngô Quân cũng thế mà Hồ Anh cũng thế.

Thỉnh thoảng tôi đưa bài đến báo Thời Thế, đôi khi vào buổi trưa, tôi lại rủ Lê Xuyên đi ăn trưa, hôm có tiền thì chui vào Chợ Lớn ăn cơm Tàu Bát Đạt. Có lần tôi rủ :

– Chúng tớ có cái phòng thuê ở trên lầu ba để thỉnh thoảng chơi phé, lấy tiền sâu gửi lại tay quản lý nên bất cứ lúc nào cần phòng là có ngay. Ông có muốn nằm lại đây một buổi không ?

Bản tính anh hiền lành nên hỏi lại :

– Nằm làm gì, tôi phải về làm việc chứ.

– Ông ngây thơ thật hay ngây thơ cụ, ông cứ lên với tôi là biết ngay “nằm làm gì”. Ông muốn Tàu cũng có mà ta cũng có.

Dĩ nhiên đến nước này thì ông bạn tôi phải hiểu, nhưng ông lắc đầu quầy quậy như anh con trai mới lớn bị bà mẹ bắt lấy vợ sớm. Tôi đưa ông trở lại toà soạn và xác nhận với anh em rằng “Lê Xuyên nó đứng đắn thật các ông ạ”. Một ông bạn tôi cãi : “Nó nhát chứ đứng đắn cái gì”. Thôi thì nhát cũng được, đứng đắn cũng được nhưng nó không giống tụi mình. Và một điều ai cũng nhận thấy là chưa bao giờ thấy mặt Lê Xuyên ở bất cứ cái phòng trà tiệm nhảy nào, ngay cả chỗ đông người anh cũng tránh. Tôi cứ lẩm cẩm ngồi nhắc lại từng chuyện khiến anh thú lắm, đó là lúc anh được sống với dĩ vãng.

Cũng vào khoảng thời gian đó, tờ báo Thời Thế có một loạt bài điều tra phóng sự về một vụ tham nhũng của một ông “Tướng Vùng”. Ông Tướng nhờ một Đại tá và một Trung tá gặp tôi để nhờ tôi can thiệp. Tôi chẳng biết trắng đen ra sao, nhưng đã có lời nhờ thì tôi làm. Tôi gọi điện thoại cho Lê Xuyên để nói với anh những gì tôi được nghe và đề nghị anh “thông cảm” cho ngưng loạt bài đó kẻo làm mất uy tín của một người chỉ huy vùng chiến thuật. Lê Xuyên nói ngay :

– Ông nói thì tôi nghe, nhưng để tôi thu xếp với anh em cho có đầu có đuôi.
Sau đó tôi điện thoại cho ông chủ báo Hồ Anh, lúc đó tôi mới biết đã có một hai ông nghị sĩ dân biểu can thiệp, nhưng Lê Xuyên vẫn cứ tiếp tục cho đăng loạt bài này. Ông Hồ Anh bảo tôi cứ nói chuyện với Lê Xuyên, nếu anh ấy chịu thì không có gì trở ngại.
Chỉ có thế thôi. Rất bất ngờ, hôm sau tôi đọc được hàng chữ trên trang nhất : “Vì có người bạn chúng tôi can thiệp nên chúng tôi thấy cần phải chấm dứt loạt phóng sự này”.

Quả thật đó là điều khiến tôi hết sức cảm động và ngay lúc đó tôi trở nên áy náy vì biết đâu đó là một sự thật mà công sức của anh phóng viên trẻ đã bỏ ra bị tôi “kỳ đà cản mũi”. Tôi gọi lại cho Lê Xuyên, anh chỉ cười :

– Thông cảm với phóng viên rồi, nó bảo ngưng cũng được, viết thế đủ rồi.

Tôi rủ anh đi ăn trưa, anh nói :

– Tôi vừa ngưng phóng sự mà đi ăn với ông thì khác gì đi ăn hối lộ. Thôi hôm nào ông được bạc mình lại đi ăn đồ Tây. Hôm nay tôi bận quá ông ạ.

Lê Xuyên cúp máy và tôi thì cứ ân hận, chẳng hiểu vì sao. Chuyện này còn có nhiều nhân chứng còn sống ở đâu đó, may ra họ còn nhớ. Tôi thì chẳng bao giờ quên.
Hơn mười năm sau, khi tôi ở trại cải tao ra, Thanh Thương Hoàng dẫn tôi đến thăm Lê Xuyên. Anh ngồi bán thuốc lá lẻ ở một góc phố (*). Chiếc quầy thuốc bé tẹo nhưng cũng đủ che hết tấm thân gầy gò của anh. Chúng tôi nhìn nhau và cùng cảm thông rất sâu sắc cái thân phận mình lúc này. Anh chớp mau mắt nói như để an ủi hơn mười hai năm tù của tôi :

– Trông ông vẫn cứ phong độ như ngày nào.

Tôi thẳng thừng thương bạn :

– Còn ông, trông chán bỏ mẹ. Đ… khóc được chứ…

Hai bàn tay bạn tôi run lên, lật bật đút chiếc chìa khoá vào ngăn tủ kính để mấy gói ba số năm bán lẻ (hồi đó ba số năm quý lắm) :

– Hút thuốc lá không ?

– Không, tớ hút thuốc lào quen rồi, về đây hút thứ nặng hơn mới đủ đô.

Thanh Thương Hoàng rủ sang bên con hẻm phía trước ăn sáng. Đó là con hẻm lối đi vào một ngôi chùa hay ngôi đình gì đó. Không có hủ tíu, Lê Xuyên phải chạy đi gọi ở một nơi nào quen bán chịu cho anh ở gần đó. Lê Xuyên trở lại với con người thật của anh. Vẫn hiền lành, cười tủm và chân quê. Phải nhìn thấy cái cười tủm của anh mới biết tại sao anh viết về những cuộc tình của những đôi trai gái đồng ruộng miền Nam hay đến như thế, láu cá đến như thế. Tôi nhủ thầm : Thằng cha này tâm ngẩm tầm ngầm mà ghê lắm đấy. Nó không nói mà chỉ viết nên nó viết được nhiều hơn mình. Chỉ có nó mới viết được những “dòng chảy ngầm” của trai gái thôn quê miền Nam thật đến thế và hấp dẫn đến thế. Lê Xuyên khác với một số những cây bút hoàn toàn Nam Bộ như Bình Nguyên Lộc và Sơn Nam ở chính cái “thật” của anh, tiểu thuyết của anh không màu mè, không lý luận, không khoác bộ áo nghiên cứu sưu tầm về phong tục tập quán dưới hình thức này hoặc dáng vẻ khác. Từng động tác, từng thái độ, từng lối ứng xử trong nhân vật của anh cứ như những con người thật lồ lộ đang ở trước mặt chúng ta vậy.

Trước mặt tôi, ông già Lê Xuyên vẫn còn cái hóm hỉnh riêng, nhưng bây giờ thì như anh nói : “..Đếch viết nữa”. Tôi hỏi không viết được hay không thích ? Câu trả lời của anh gọn lỏn : “Bỏ đi Tám”. Tôi không thể hiểu nổi ba chữ “bỏ đi Tám” mà anh dùng. Có một nỗi chua chát nào đó trong cái tâm sự thật của anh ? Đến cái thẻ chứng minh nhân dân anh cũng không muốn làm nên anh ở nàh anh mà anh không có tên trong sổ hộ khẩu, cứ như ở lậu, công dân lậu. Thái độ đó có đồng nghĩa với sự “Bỏ đi Tám” của anh không ? Chỉ có anh mới hiểu và bây giờ anh mang theo anh về thế giới bên kia.
Cách đây vài năm, tôi có viết một bài về Lê Xuyên và may mắn nhận được sự giúp đỡ thiết thực của khá nhiều bạn bè. Trong đó có một vài tờ báo muốn đăng lại những truyện dài của anh, tôi hỏi, anh chỉ lắc đầu: “Chẳng còn cuốn nào” và cả chị Lê Xuyên cũng không kiếm được cuốn nào cả.

Ba năm sau cùng, anh không còn sức để ngồi bán thuốc lá lẻ nữa. Thỉnh thoảng tôi và Nguyễn Thuỵ Long đến thăm anh, cố dìu anh ra quán cà phê cuối ngõ ngồi lai rai tâm sự vặt. Hai năm sau này thì dù chúng tôi có cố lôi anh đi cũng không nổi nữa. Anh như cái bóng trong góc tối của gian phòng chật chội vây quanh bởi hàng trăm thứ lỉnh kỉnh nào bàn ghế, chai lọ, giường tủ. Chỉ có cô con gái út săn sóc cho anh, bà vợ và các con lớn của anh vất vả với công việc hàng ngày. Cái chết đến từ từ theo từng ngày giờ buồn tênh, dường như anh chán cả cái sống và cái chết, không thèm chú ý đến nó nữa.

Khi tôi đến với anh lần cuối là lúc các con anh đang thay quần áo cho anh trước khi nhập quan. Cái thân hình gầy gò trần trụi của anh phơi ra, tất cả chỉ còn có thế. Tôi chuyển ngay cho chị số tiền mà tôi mới gửi e-mail tối hôm qua thông tin về sự ra đi của anh, nhanh chóng được đáp ứng. Các bạn ở Virginia, San Jose, Santa Ana yêu cầu tôi chuyển tiền đến lo tang lễ cho anh. Một người bạn đưa ngay đến 2 triệu và mang đến vòng hoa đầu tiên của bạn bè Sài Gòn. Hôm sau chị Lê Xuyên với bà con đến phúng :

– Có các bác bạn văn của nhà tôi giúp nên tôi mạnh tay làm đủ thứ việc cho nhà tôi. Mạnh vì gạo bạo vì tiền, có phải không các bác ? Không có bạn bè, tôi chẳng còn biết xoay sở ra sao.

Tôi nói với chị :

– Chắc sẽ còn nữa, có một số anh em chưa gửi về kịp, xin chị an tâm đi tiếp con đường ai cũng phải đi.

Buổi chiều ngày 5/3, đúng hai giờ lễ động quan bắt đầu, giữa trời nắng chang chang, chúng tôi đưa người quá cố đến nghĩa trang Bình Hưng Hoà. Có rất nhiều người bên hè phố lặng lẽ tiễn đưa anh. Đám tang nhà văn Lê Xuyên không ồn ào như đám tang của những nhà nghệ sĩ mà ở đây người ta cho rằng đó là những “nhà nghệ sĩ lớn”, nhưng những con người thầm lặng ấy đưa tiễn anh với tất cả tấm lòng mình. Họ không nói gì, không có kèn saxo như trong đám tang Trịnh Công Sơn, không có những giọt nước mắt dài ngắn thở than của những danh ca nghệ sĩ, không có những bài “điếu văn” lâm ly bi đát, nhưng đám tang Lê Xuyên đầy ắp những tình yêu thương từ xa xưa đọng lại, từ bốn phương, tám hướng lãng đãng bay về phủ kín khung trời Sài Gòn.

(*) Xe thuốc lá đẩy nằm trên đường Nguyễn Tri Phương Q10

(chú thích motthoisaigon)

Về nhà văn lão thành Lê Xuyên

– Nguyễn Việt

Tháng 3/2011 là tháng tròn 7 năm ngày mất của nhà văn lão thành Lê Xuyên. Và khi nhắc đến tên ông, không kể giới văn nghệ sĩ, ký giả còn đa số mọi người dân miền Nam khi xưa và đến bây giờ hình như từ trong nước ra đến hải ngoại đều biết đến tên ông qua tác phẩm “Chú Tư Cầu”, một giọng văn giản dị nhưng xúc tích nhiều ngôn từ, ngữ điệu của người miệt đồng bằng sông Cửu Long.

Tôi nhớ mãi một kỷ niệm khó quên, do là người trong ban biên tập của nhật báo Trắng Đen, phụ trách trang trong tức trách nhiệm với những bài vở chuyên mục và cả những feuilleton (tiểu thuyết trường thiên tải đăng mỗi ngày) từ các nhà văn tên tuổi bấy giờ như Trần Đức Lai, Vị Thủy, Lê Xuyên, bà Lan Phương, Trương Đạm Thủy, Kim Sơn, Từ Khánh Phụng, Thương Lan v.v…

Nhà văn Lê Xuyên lúc đó đang làm tổng biên tập bên báo Dân Ý (có trụ sở tòa soạn trên đường Gia Long, đối diện rạp long Phụng) nhưng báo nào mời ông viết feuilleton ông cũng gật đầu cái rẹt. Tính ra, lúc đó mỗi ngày nhà văn Lê Xuyên phải nạp bài cho 3, 4 tờ báo và còn chịu trách nhiệm bài vở bên tờ Dân Ý. Nhiều người nói ông phát tài, với chức vụ và các feuilleton đó, mỗi tháng ông lãnh lương cũng gần cả trăm ngàn. Nên biết với tên tuổi của nhà văn Lê Xuyên, không báo nào trả tiền tác quyền dưới 15 ngàn/tháng (những nhà văn khác chỉ ở khoảng 10 đến 12 ngàn) mà vàng lúc đó chỉ trên 30 ngàn/lượng. Vậy mà ông vẫn đi chiếc vespa cà tang “thời Bảo Đại còn ở truồng tắm mưa” (theo lời dí dỏm của các đồng nghiệp với ông).

Ông chủ báo Trắng Đen giao nhiệm vụ cho tôi, người phụ trách các feuilleton “không để chừa trắng tiểu thuyết của ai với lời cáo lỗi : tác giả bị bệnh bất ngờ, xin cáo lỗi tạm ngưng 1 kỳ”. Ông chủ báo còn nhấn mạnh, nhất là những tiểu thuyết đang “ăn khách” của Trần Đức Lai, Lê Xuyên.

Chính vì lẽ đó, đôi khi có nhà văn bị cảm cúm thật, đôi khi vì quá mệt  mỏi bởi các bài vở khác không còn thời gian… viết. Nhà văn Lê Xuyên thì thường xuyên, nói theo ngôn từ hiện đại ngày nay là bị quá tải, nên luôn luôn trễ giờ hay quên “nộp bài” cho báo. Tôi phải ngồi nặn… thêm khúc không có bài để không “cáo lỗi cùng bạn đọc”. Nhưng mình đâu phải cha đẻ cốt truyện, cho nên những đoạn văn ấy chỉ dám tả cảnh, hay trở lại hồi tưởng v.v… cho trang báo lúc nào cũng đầy chữ. Mà qua bên báo Dân Ý hối ông nộp cũng không xong, đành phải thất lễ.

Một hôm nhà văn Lê Xuyên – sau khi quên nộp bài – ông đến không như những nhà văn khác với bộ mặt giận dỗi – một phần do tự ái, bởi những báo khác nếu không nộp bài kịp giờ thì họ chừa trắng – ông đến lại cười cười nói với tôi “chú mày muốn chia lương với tao sao ?” biết câu nói đùa, nhưng tôi vẫn phải thanh minh “ông chủ báo không cho em để trắng tiểu thuyết của ai, qua hối anh viết cũng không xong, đành viết theo kiểu vô thưởng vô phạt nhằm trám chỗ chờ anh giao bài tiếp thôi mà”. Nhà văn Lê Xuyên, vẫn nụ cười nhân hậu nói : “Ừ để tao cố gắng giao bài cho chú mày đều đặn”.

Tính nhà văn Lê Xuyên là như vậy, và nghề viết feuilleton cũng thường gặp những trường hợp này.

Lê Hoàng Nguyễn (tổng hợp)

Một bình luận

Bình luận về bài viết này