MÓN NGON SÀI GÒN

Logo am thuc

8 Cho Saigon 2ĐI ĂN CHÁO TIỀU

TRONG CHỢ LỚN

Cách ăn của người Hoa cũng rất khác nhau. Nếu như người Quảng Đông chuộng những món chiên xào, hơi nhiều dầu mỡ, người Hẹ trung thành với vị cay nồng trong từng món ăn, thì người Tiều trong Chợ Lớn lại hợp với những món có vị lạt và thanh đạm hơn rất nhiều.

Quán cháo Tiều lâu đời trên đường Hồng Bàng này cũng vậy. Anh Tường chia sẻ rằng rằng ông nội mình những ngày còn ở Kiết Dương, Triều Châu đã có nghề bán cháo,9 Chao Tieu 1 khi sang Việt Nam vẫn tiếp tục rồi truyền lại cho cha anh, rồi sau này mấy anh em nối nghiệp.

Cháo Tiều được coi là món của nhà nghèo, bao gồm nồi nước lèo với cải chua hầm, lòng heo, giò heo, thịt mỡ, huyết heo, đậu hũ… để chung và hầm liu riu lửa qua nhiều ngày, ăn chung với cháo trắng nấu lạt, hạt gạo vừa nở bung mà ta hay gọi là cháo hoa (theo cách gọi bằng thổ âm là món “ciae mué” (chè muế), ăn với “kềm xại”  (cải chua) và “từ tố (lòng heo) hay còn gọi là “tư khoan xoại”).

Quan trọng nhất là nồi nước lèo cải chua hầm, với phần gia vị phần lớn là các vị thảo dược bí truyền. Đây cũng là bí quyết để hãm vị béo trong phá lấu hay giò heo, tương tự như trong món hủ tiếu hồ cũng của người Tiều. Anh Tường cho biết các gia vị này được ông nội mình đúc kết như những bài thuốc, người kế nghiệp cứ theo bí quyết đó mà làm.

9 Chao Tieu 2Với món phá lấu, nhiều tài liệu cho rằng món này được hình thành từ những lần cúng kiếng, giỗ chạp của người Tiều. Con heo cúng ăn không hết, để giữ được lâu ngày thì phải đem tẩm ướp sau bỏ vào nồi ăn dần. Nồi nước phá lấu gồm các gia vị như ngũ vị hương, quế chi, bát giác, đại hồi, tiểu hồi cùng một số vị thuốc bắc. Còn phần thịt của heo bất cứ bộ phận nào cũng đều nấu phá lấu được, từ lưỡi, tai heo, ruột heo cho đến bao tử…

Nồi phá lấu có thể để quanh năm suốt tháng, hết nước lại châm vào, rồi cho thêm chút muối là có thể ăn dần trong cả năm. Trước đây quán cháo Tiều nhà anh Tường có rất nhiều món muối của nhà tự làm, nhưng rồi sau này cực quá nên chỉ giữ lại những món đặc sắc nhất.Món giò heo hầm cũng rất được yêu thích. Giò heo hầm nhừ nhưng phải khéo để không bị nát thịt, chỉ cần dích nhẹ đũa là thịt đã bung ra. Vị đậm đà nhưng rất ít béo nhờ hầm với cải chua có tác dụng rút mỡ, nên ăn không bị ngán.

9 Chao Tieu 3Nếu gõ “Teochew porridge” (cháo Tiều) vào ô tìm kiếm của Google, bạn sẽ nhận được rất nhiều kết quả đến từ Singapore. Ở đây cộng đồng người Tiều vẫn trung thành theo cách nấu cháo “Sua ga Hai”, tức là “núi và biển”. Một tô cháo trắng đúng kiểu người Tiều phải phân ra 2 phần riêng biệt: “núi” là phần gạo nở nằm phía trên, còn “biển” là phần nước phía dưới, nằm tách riêng chứ không trộn lẫn vào nhau. Điều này cũng tương ứng với câu nói quen thuộc của người Tiều “Kháo sơn thực sơn, kháo hải thực hải” (Ở núi ăn núi, ở biển ăn biển): người sống ven biển chuyên về những món cá hấp, còn người miền núi lại có những bí quyết lưu giữ món ăn lâu ngày mà vẫn ngon.

Một món ăn thú vị mà bạn nên thử qua nếu có dịp vào Chợ Lớn. Để giữ nguyên vẹn hương vị qua ngần ấy năm, hẳn người nấu cũng thật nặng lòng với những sản phẩm do chính mình tạo ra. Cũng có thể xem đó như một phần di sản mà những thế hệ đã “để dành” cho nhau.

9 Mi Thieu Ky 1MÌ NGON 70 NĂM

CỦA SÀI GÒN

Tôi đã được nghe rất nhiều giai thoại về xe mì Thiệu Ký trong con hẻm 66 Lê Đại Hành này. Nào là danh tiếng của chủ quán, ông Tư Ky, lừng lẫy đến mức con hẻm 66 này được người dân xung quanh gọi là “hẻm Tư Ky”. Rồi bề dày lịch sử 70 năm của quán, trải qua bao nhiêu ngày tháng, biến cố lịch sử vẫn giữ nguyên một hương vị. Về cọng mì bí truyền, ăn cho đến gần hết tô vẫn dai mà không bị nở…

Những người kế nghiệp quán mì Thiệu Ký ngày nay gọi ông Tư Ky là ông ngoại. Những năm 30 của thế kỷ trước, ông Tư Ky đã chọn Việt Nam làm quê hương thứ hai của mình với nghiệp mưu sinh là gánh mì nhỏ bán quanh khúc giao lộ Thuận Kiều, Trần Quý, Hòa Hảo (quận 11 ngày nay). Rồi gánh mì chuyển lên thành xe mì đẩy đi bán xung quanh khu vực có đông người Hoa sinh sống. Đến sau năm 1975 thì xe Thiệu Ký mới chính thức yên vị trong con hẻm nhỏ 66 Lê Đại Hành này.

Hành trình sản sinh cọng mì và hủ tiếu của người Hoa là một chủ đề khá khá vị. Nếu như cọng hủ tiếu dai trong hủ tiếu Nam Vang là một biến thể thú vị từ những người Mẫn Nam (Phúc Kiến) trong giai đoạn di cư về phía những nước Đông Nam Á, với bột gạo là nguyên liệu chính. Do không có nguyên liệu làm mì, họ đã dùng nguyên liệu tại chỗ là gạo để chế sợi thay cho mì 9 Mi Thieu Ky 2(từ đầu thế kỷ trước 3 nước Đông Dương đã là một vựa gạo khổng lồ với sản lượng xuất khẩu lên đến 1.5 triệu tấn hàng năm).

Tuy cọng hủ tiếu được sản sinh ở những nước Đông Dương xưa (có thể từ thế kỷ 17 đến 18), thì sợi mì vẫn tồn tại song song trong cộng đồng Hoa kiều. Và tất nhiên mỗi quán mì đều có bí quyết chế biến sợi mì, xem như bản sắc của mình. Với quán Thiệu Ký cũng vậy. Đã 70 năm qua, các thành viên trong gia đình ông Tư Ky vẫn giữ nguyên thói quen làm sợi mì riêng cho quán mình. Một quy trình khép kín từ 2h chiều kéo dài đến 5-6h tối. Sợi mì được làm theo một bí quyết chuyên biệt : bột mì trộn cùng trứng vịt và nước tro tàu, ủ một thời gian rồi mới mang đi cán và cắt sợi.

Cũng nhờ vậy mà món chủ lực ở Thiệu Ký – mì khô dầu hào – ngon một cách khó tả. Sợi mì dai, giòn một cách tự nhiên, và đặc biệt không giờ bị nở cho dù bạn ăn thật chậm. Vị mì ngon hòa với một chút dầu hào và tốp mỡ, nêm thêm một chút giấm đỏ (vị chua mà người Việt thường chọn chanh để thay thế), gắp chung một đũa với miếng xá xíu mới là trọn vẹn một tô mì “chính hiệu” Tư Ky.

Bên cạnh món mì bí quyền qua bao nhiêu năm tháng, ở Thiệu Ký còn nhiều món ngon khác như hủ tiếu thập cẩm, bò kho, hoành thánh và sủi cảo. Sủi cảo ở đây khá chất lượng, to và đầy đặn nhân tôm chứ không nhỏ để đáp ứng về mặt số lượng như các quán khác. Hủ tiếu thập cẩm ăn với lòng, sườn heo cũng là món nên thử.

Thời khắc đẹp nhất đế ăn ở Thiệu Ký có lẽ nằm trong khoảng từ 9 đến 10 giờ. Khi đó trời Sài Gòn vừa dịu nắng sáng, con hẻm nhỏ 66 Lê Đại Hành cũng đã vãn bớt thực khách… Để tôi được cảm nhận trọn vẹn hương vị của thời gian, của những đam mê  được gìn giữ qua nhiều thế hệ. Như là một đặc ân dành cho người Sài Gòn vậy.

9 HT Nam vang 1HÀNH TRÌNH THÚ VỊ

CỦA MỘT PHIÊN BẢN

HỦ TIẾU NAM VANG

Tự nhận món ăn mình phục vụ là “nguyên bản” luôn là một chủ đề gây nhiều tranh cãi, đặc biệt là với dòng hủ tiếu tương đối phổ biến trong đời sống ẩm thực Sài Gòn như hủ tiếu Nam Vang. Tuy nhiên những dữ kiện của phiên bản hủ tiếu Nam Vang – Ty Lum đã gợi mở rất nhiều điều lý thú về món ngon này.

Hủ tiếu Nam Vang khi du nhập vào Việt Nam đã bị lai tạp ít nhiều. Nếu như tô hủ tiếu nguyên bản chỉ có thịt heo bằm và xắt miếng, ăn kèm với xà lách và giá sống (cùng một chút đường) thì khi phiêu bạt theo làn sóng người Tiều gốc Việt về Sài Gòn, hủ tiếu Nam Vang đã thay đổi khá nhiều về hình thức. Nếu như phần nhân bổ sung thêm gan, tim, tôm, trứng cút… thì phần rau ăn kèm cũng phong phú hơn với rau cần, tần ô và hẹ. T9 HT Nam vang 2uy khác biệt là vậy nhưng chung quy hủ tiếu Nam Vang khi du nhập vào Sài Gòn có phần ngon hơn cũng như phù hợp với khẩu vị địa phương, nên có lẽ cũng không ai thắc mắc về những thay đổi này.

Theo như đầu bếp Ty Lum thì món hủ tiếu đầu tiên ra đời vào khoảng năm 1920 tại Bết-Chan, một thị trấn nhỏ cách thủ đô Nam Vang 19km do một gia đình người Tiều từ Trung Hoa sang lập nghiệp sáng chế ra. Rồi sau đó chuyển về WEN – Thành vua (một liên doanh Pháp – Hoa) và mở thêm một quán mới đặt tên là La Pagode tại thủ đô Phnompenh.

Ty Lum vốn là con của một gia đình Việt kiều ở Nam Vang (cách gọi khác của thủ đô Phnompenh). Sau khi học hết trung học, ông theo học nấu ăn tại một trường lớn chuyên về ngành này và may mắn gặp được một ông thầy người Hoa chỉ cho bài “hủ tiếu”. Khi ra trường Ty Lum đứng bếp cho nhà hàng La Pagode trứ danh được 2 năm thì được thu dụng vào Hoàng cung, và trong đó món điểm tâm hủ tiếu Nam Vang được chính Ty Lum phục vụ.

Khi hồi hương, Ty Lum sinh sống bằng nghề buôn quạt máy, rồi sau đó ra Nha Trang mở lò sấy mực khô cung cấp cho các nhà hàng. 9 HT Nam vang 3Cũng nhờ đi khắp nơi nên ông phát hiện Sài Gòn còn thiếu một quán hủ tiếu Nam Vang “đạt chuẩn”, tức là tuy có thay đổi cho phù hợp với khẩu vị địa phương nhưng vẫn phải giữ được chất lượng nguyên thủy của món hủ tiếu này. Nước súp phải rất trong, ngọt nhờ vào xương hầm chứ không phải bột ngọt.

Khi mở tiệm hủ tiếu đầu tiên tại ngã tư Nguyễn Trãi – Huỳnh Mẫn Đạt (quận 05), Ty Lum đã cải tiến thêm phần nhân với miếng chả cá, tim, gan cũng như trứng cút. Thú vị nhất là cọng hủ tiếu được đặt riêng của quán, ăn dai, mịn mà không bị chua. Rồi đến phần tỏi phi thơm lừng chan trên bề mặt tô hủ tiếu, nhất là ở phiên bản khô. Khi trộn đều tất cả lên rồi nêm nếm với chanh, ớt và tỏi chua mới thấy hết vị ngon của món ăn này. Đặc biệt phần nước súp được giữ lại như nguyên bản với vị ngọt đậm mà thanh.

Đã đến Phnompenh và thử qua món hủ tiếu nơi đây, tôi vẫn thấy không đâu ăn hủ tiếu Nam Vang ngon như… Sài Gòn. Có lẽ từ những “can thiệp” thú vị của các đầu bếp tài hoa tụ hội từ tứ phương đã mang lại nét độc đáo cho món hủ tiếu Nam Vang ngay tại Sài Gòn, hình thành nên một xu hướng thưởng thức hết sức đặc biệt của món ngon này.

9 Ca can 1HỦ TIẾU CẢ CẦN:

MỘT PHẦN DI SẢN SÀI GÒN

Người Sài Gòn hầu như ai cũng biết đến thương hiệu hủ tiếu và bánh bao “Cả Cần” nằm ở góc tiểu đảo ngay ngã tư Nguyễn Tri Phương – Hùng Vương này (phía trước công viên Văn Lang và khá gần với bùng binh Ngã Sáu). Cũng có nhiều người thắc mắc sao cái quán đề bảng “hủ tiếu Cả Cần” có phần cũ kỹ, xập xệ đó lúc nào cũng đông khách, nhất là từ giấc trưa đến tối khuya. Nhưng nếu biết được lịch sử thú vị cũng như những câu chuyện xung quanh nó, có thể bạn cũng sẽ rất ngạc nhiên.

Đầu tiên là cái tên trứ danh “Cả Cần”. Chủ của thương hiệu hủ tiếu này là ông Trần Phấn Thắng (nay đã mất). Theo lời tâm sự của ông khi còn sống, thì “Cần” là tên của một người bạn thân chẳng may mất sớm. Chữ “Cả” được ghép thêm vào vì ông thích những chữ có cùng phụ âm theo kiểu “Tin-Tình-Tiền-Tù-Tội”. Và cũng từ cái tên “Cả Cần” đó mà ông rất tâm đắc với câu quảng cáo toàn chữ “c” của quán : ”Có Cả Cần Cần Chi Có Cả”.

9-ba-nam-1Vợ chồng ông Cả Cần xuất thân từ công chức chế độ cũ. Bà là người gốc Bến Tre và nấu ăn rất ngon, còn ông thì khiếu ăn nói khéo léo và tài giao thiệp rộng rãi. Từ sự kết hợp trên họ đã quyết định từ bỏ công việc hiện tại và mở quán hủ tiếu và bánh bao Mỹ Tho. Cái tên “Cả Cần” được ông chọn cho quán đầu tiên nằm ở ngã tư Công Lý (Nguyễn Văn Trổi bây giờ) – Trương Quốc Dung. Năm 1969, khi mở quán thứ hai thì ông Thắng mời bà Năm Sa Đéc (nghệ sĩ cải lương và thoại kịch nổi tiếng một thời, vợ của học giả Vương Hồng Sển) đứng tên hộ như  một cách mượn danh người nổi tiếng để quảng cáo. Cách làm này rất hiệu quả khi những người hâm mộ cải lương và bà Năm Sa Đéc kéo đến nườm nượp để vừa thưởng thức món ăn ngon cũng như chiêm ngưỡng thần tượng của mình bằng xương bằng thịt.

Sự kết hợp này cũng làm nảy sinh nhiều đồn đoán : ông Cả Cần gốc Sa Đéc chứ không phải Mỹ Tho, hoặc bà Năm Sa Đéc có quan hệ với ông Cả Cần, hoặc bà Năm có phần hùn trong quán… Thậm chí còn có nguồn thông tin cho rằng thương hiệu “Cả Cần” do bà Năm tạo dựng ra, và ông Thắng đã hợp thức hóa thương hiệu này trước qua các văn bản pháp luật để chính thức sở hữu nó. Tuy nhiên, thông tin chính xác nhất vẫn là bà Năm chỉ là người đứng tên như một hình thức khuyếch trương thương hiệu. Tiếp theo đó có một vụ thưa kiện giữa quán và chính quyền về việc giải tỏa mặt bằng mà cuối cùng là ông Thắng đã thắng kiện. 9 Ca can 2Bà Năm Sa Đéc sau đó đã rút tên ra. Quán được đổi tên thành ”Mỹ Tiên”, là tên cô con gái lớn của ông Thắng.

Sau năm 1975 gia đình ông Thắng định cư ở Montreal, Canada và mở một số nhà hàng mang thương hiệu “ONG CA CAN” khá thành công. Rồi những năm 90 mở cửa, ông cùng gia đình về lại Việt Nam tìm kiếm cơ hội làm ăn. Quán hủ tiếu nức danh ngày xưa nay đã xuống cấp và mất dần khách. Gia đình ông thương lượng lại mặt bằng, để rồi ngày nay quán có đến 2 chủ : bữa sáng do người quản lý cũ bán, từ chiều đến tối là của gia đình ông. Khách đến đây sẽ thấy dòng chữ Việt – Anh trên tờ menu: “Sáng và chiều khác nhau” (Morning and afternoon different) như một cách làm rõ về những khác nhau trong chất lượng tô hủ tiếu, cũng như khẳng định buổi chiều mới là chính hiệu hủ tiếu và bánh bao Cả Cần.

Tô hủ tiếu Cả Cần theo nấu trường phái hủ tiếu Mỹ Tho, món ăn được “Việt hóa” từ hủ tiếu của người Tiều (Triều Châu). Chủ các tiệm hủ tiếu Mỹ Tho thường là người Việt gốc Hoa, tuy nhiên chủ các lò sản xuất bánh hủ tiếu lại thường là người Việt chính gốc.

9 Ca can 3Bánh hủ tiếu

Mỹ Tho là loại bánh khô được chế biến từ các loại gạo thơm địa phương như Nàng Thơm, Nàng Út hoặc thậm chí là loại cao cấp như Nàng Thơm Chợ Đào. Ngày nay có 2 trung tâm sản xuất bánh hủ tiếu khô nổi tiếng : một ở Mỹ Tho và một ở Gò Công, sản xuất hầu hết hủ tiếu khô cung cấp cho cả nước. Nhờ vậy mà sợi hủ tiếu Mỹ Tho có mùi thơm của gạo, trụng với nước sôi thì mềm nhưng không bở, nhai thì nghe dai dai nên gọi là hủ tiếu dai, ăn không có mùi chua.

Cách thưởng thức món hủ tiếu Cả Cần cũng theo 2 cách là khô và nước. Để thấy hết cái đặc biệt của tô hủ tiếu này tôi nghĩ bạn nên gọi một tô khô. Cái khác biệt và độc đáo của món khô so với nước là ẩn dưới lớp thịt bằm, sườn non, xá xíu và con tôm luộc kia là một loại nước sốt chua ngọt rất đặc biệt. Chính vị chua ngọt này hòa với vị mặn của lớp tôm khô cháy tỏi phía trên tạo nên hương vị đậm đà của tô hủ tiếu khô. Nêm thêm một chút chanh, ngắt thêm vài cọng giá sống, rau cần, hòa lẫn với bánh hủ tiếu mới thấy hết cái ngon của tô hủ tiếu

Cả Cần trứ danh qua bao thập kỷ này.

Hủ tiếu Cả Cần ngày nay có cải biên thêm một chút, ngoài các thành phần sườn non, thịt bằm, xá xíu, tôm còn có thêm chả cây và dồi chiên (như trong món cháo lòng). Phiên bản đặc biệt này được bán với giá 67,000 hẳn sẽ làm bạn hơi bất ngờ. Tuy nhiên với thành phần đặc biệt và đa dạng như vậy, cũng đáng để thử qua.

Tr an uong 5Ngoài ra còn có món bánh bao đã làm nức lòng bao thế hệ khách hàng. Bạn sẽ sửng sốt thêm một lần nữa khi biết một cái bánh bao đặc biệt có giá đến 32.000đ (nhân tôm, thịt, trứng muối và nấm đông cô). Bánh được hấp trên một bếp lớn với kỹ thuật bí truyền, tạo ra độ thơm ngon mà hiếm quán nào sánh bằng. Rất nhiều thực khách khi ăn hủ tiếu xong còn gọi một cái bánh bao đặc biệt ăn thêm, vì như vậy mới trọn vẹn một lần đến ăn ở Cả Cần.

Hơn 40 năm trôi qua cùng với bao biến cố và sự kiện, tô hủ tiếu cùng cái bánh bao vẫn giữ đúng hương vị từng làm mê đắm bao thế hệ người Sài Gòn. Sẽ không quá lời nếu cho rằng hủ tiếu Cả Cần là một phần của di sản ẩm thực Sài Gòn.

Phú Lê post (theo Tân Nhân)

Tr an uong 2XUÝT XOA VỚI

NHỮNG MÓN ĂN

CAY XÉ LƯỠI

Các món ốc : Ốc cau, ốc hương, ốc gai chúa, ốc dừa… được chế biến với vị cay xé lưỡi khiến bạn phải xuýt xoa khi thưởng thức.

1/. Ốc cau rang muối ớt : Ốc cau to bằng đầu ngón tay, có vỏ màu vàng nhạt, thịt giòn, ngọt rất ngon. Ngâm ốc khoảng 30 phút, sau đó vớt ra rửa lại bằng nước sạch và đem luộc chín rồi để ráo nước. Trộn đều ớt xay, muối tôm, một ít muối tinh và nước lạnh, khuấy đều hỗn hợp đó cho hơi sền sệt. Đặt chảo lên bếp, phi thơm một ít tỏi, cho hỗn hợp muối và ốc vào, rang đều tay đến khi muối ớt khô lại, bám trên từng vỏ ốc. Những con ốc được bám một lớp muối ớt bên ngoài, hương thơm cay nồng kích thích vị giác của người ăn.

9 Mon oc 12/. Ốc khế nướng tiêu xanh : Ốc khế luộc chín, dùng mũi dao cậy lấy thịt ốc ra khỏi vỏ, bỏ phần ruột mềm màu trắng bao quanh. Thái thịt ốc thành từng lát vừa ăn, cho trở lại vào vỏ ốc và nướng trên bếp than hồng. Khi ốc bắt đầu nóng lên, chan đều nước mắm đã pha lên thịt ốc, rắc hạt tiêu xanh lên trên và nướng chín. Khi thịt ốc khế săn lại và chuyển sang màu vàng cùng với hương thơm đậm đà của nước mắm, vị cay nồng của tiêu tỏa ra là bạn có thể bắt đầu thưởng thức món ăn này.

3/. Ốc giác nướng muối ớt : Ốc giác nướng muối ớt giữ được vị ngọt tươi nguyên từ thịt ốc. Khi thịt ốc giác săn lại và chuyển sang màu vàng cùng với hương thơm đậm đà của muối ớt là bạn có thể bắt đầu thưởng thức món ăn này. Thịt ốc ăn giòn mềm và hơi dai, cái ngọt của thịt hòa trong cái vị mằn mặn cay cay đem lại cho người ăn cảm giác thích thú vô cùng dễ chịu.

4/. Ốc dừa xào bơ cay : Ốc dừa xào bơ cay là món ăn không no nhưng vui miệng và được nhiều người yêu thích. Cái ngọt của thịt ốc hòa với vị béo, thơm của bơ, cái vị cay của ớt làm tăng thêm hương vị cho món ăn dân dã này. Không gì thú vị bằng trong những ngày trời mưa lành lạnh, tụ tập bên đĩa ốc nóng… vừa ngồi nhể từng con ốc dừa thơm mùi bơ, xuýt xoa vì vị cay của nó vừa tán gẫu cùng bạn bè, người thân sẽ trở thành kỷ niệm khó quên.

9 Mon oc 2

5/. Ốc hương rang muối ớt : Món này được chế biến khá đơn giản, ốc được rửa sạch và luộc sơ cho ốc vừa chín, vớt ra để ráo nước, sau đó cho vào chảo rang với muối, ớt xay và các loại gia vị khác sao cho vừa ăn và đậm đà. Vỏ ốc bên ngoài được rang vàng, thấm đẫm muối ớt nhìn thật hấp dẫn và kích thích vị giác của người ăn. Và cũng chính cái vị mằn mặn, cay cay của muối ớt cùng phần thịt ốc đậm đà, giòn sần sật khiến bạn ăn hoài không ngán.

6/. Ốc đỏ nướng mọi : Ốc đỏ với lớp vỏ cứng ngắc bên ngoài, nhưng khi được nướng muối ớt lại tạo thành một món ăn với hương thơm rất đặc biệt khiến người thưởng thức phải xuýt xoa. Thịt ốc đỏ giòn dai và có vị ngọt rất ngon miệng khi thưởng thức.

9 Mon oc 37/ Ốc gai chúa nướng nước mắm ớt : Ốc gai chúa nướng nước mắm ớt hấp dẫn người ăn bởi hương vị đậm đà cay nồng của nó. Chế biến đơn giản nhưng đòi hỏi sự tỉ mỉ của người đầu bếp. Những con ốc sau khi rửa sạch, cho vào nồi và luộc vừa chín tới. Dùng mũi dao cậy lấy thịt ốc ra khỏi vỏ, bỏ đi phần ruột mềm màu trắng bao quanh. Thái thịt ốc thành từng lát vừa ăn, cho trở lại vào vỏ ốc và nướng trên bếp than hồng.

Chén nước mắm được pha với vị cay đặc biệt. Khi ốc bắt đầu nóng lên, chan đều nước mắm đã pha lên thịt ốc, nhẫn nại ngồi chờ nước mắm ngấm đều trong từng lát thịt ốc. Thịt ốc gai chúa ăn giòn mềm và hơi dai, cái ngọt của thịt hòa trong cái đậm đà của nước chấm lan tỏa nơi đầu lưỡi cùng vị cay của ớt khiến bạn phải xuýt xoa.

Yên Huỳnh post