NHẠC SĨ LAM PHƯƠNG

Logo su kien 2

9 Lam Phuong 1MỘ CỔ TRONG CÔNG VIÊN TAO ĐÀN

THUỘC DÒNG TỘC NS LAM PHƯƠNG

Sau khi trang du lịch Rough Guides (Anh) tung tin công viên Tao Đàn ở Sài Gòn (trước đây có tên vườn Bờ-Rô, vườn Ông Thượng) là một trong những địa điểm bị ma ám ”ghê rợn nhất thế giới”, nhiều người đã liên tưởng, thậm chí thêm thắt chuyện về cụm mộ bí ẩn đã tồn tại rất lâu tại công viên này.

Phóng viên báo chí đã lần theo nhiều dấu vết tìm hiểu và phát hiện những điều thú vị, giải đáp bí mật của cụm mộ cổ này. Đi cùng phóng viên là Phó giáo sư – tiến sĩ Phạm Đức Mạnh, Trưởng Bộ môn Khảo cổ học, Khoa Lịch sử, Trường ĐH Khoa học Xã hội và Nhân văn (ĐH KHXH-NV), ĐH Quốc gia thành phố.

Di tích cổ hơn trăm năm ít người biết đến

Mộ có các vòng tường bao vây vòng, ngăn ngang tạo thành ba lần cổng vào lăng mộ. Mộ bao gồm tiền sảnh – sân thờ và nhà mộ. 9 Co mo 1 Lối vào mộ có các trụ cột đài sen hình khối chữ nhật. Mặt trước và phía trong của thân trụ có ô khuông trang trí hình chữ nhật lồng vào nhau. Tuy nhiên, hiện bên trong không còn dấu vết chữ viết hay hoa văn trang trí.  Giữa sân trước có bức bình phong tiền hình chiếu thư đặt trên bệ đỡ.

Nhà bia thể hiện kiểu nhà một gian hai chái. Mái ngói ống đổ trước – sau theo trục mộ với mỗi mái 11 ống ngói. Dọc đòn nóc thể hiện hai khối tượng voi phục châu đầu vào mộ. Nhà mồ liên kết nhà bia qua một rãnh máng nước. Mái lợp 10 ống ngói, viền đòn nóc và đặc biệt có đắp gờ hình đầu rồng và ngẫu tượng voi phục cách điệu.

Những  ngôi mộ này nằm ở phần phía tây bắc của công viên Tao Đàn, cách đường Trương Định khoảng 35 m về phía bên phải, cách giao lộ Nguyễn Thị Minh Khai – Trương Định khoảng 55 m về phía tây bắc. Đây là vị trí rất dễ dàng nhìn thấy với những ai đi qua công viên Tao Đàn. Tuy nhiên, nhiều người dân thường dạo chơi hay người bán hàng ở đây mỗi ngày, thậm chí bảo vệ làm việc từ lâu năm, hầu như đều không biết lai lịch ngôi mộ của ai, có từ khi nào. Điều đó đã tạo nên sự bí ấn và nhiều câu hỏi quanh cụm mộ ở công viên Tao Đàn.

Nhìn tổng thể bên ngoài những ngôi mộ này, Phó giáo sư Phạm Đức Mạnh đánh giá : Mộ có cấu trúc lăng song táng một nấm mộ dạng lăng, quy mô mộ lớn. Có thể thấy, từ bình phong hậu đến trụ cổng ngoài của ngôi mộ dài nhất 11,2 m; rộng nhất là 7,6 m. 9 Co mo 2Ngoài ra, kiến trúc của ngôi mộ khép kín, cầu kỳ.

“Đặc biệt, mộ xây dựng bằng hợp chất, còn gọi là mộ Ô dước – loại nhựa cây đặc sản của rừng Trường Sơn và nông thôn Việt Nam”, Phó giáo sư Phạm Đức Mạnh cho biết.

Theo nghiên cứu, phân tích, Phó giáo sư Phạm Đức Mạnh xác định đây thuộc loại hình mộ phổ biến trong văn hóa Việt từ thế kỷ 15 – đầu thế kỷ 20.

“Ở miền Bắc, loại mộ này chỉ dành cho hoàng gia (như lăng mộ vua Lê Dụ Tông, hoàng hậu, vợ chúa, công chúa,…). Riêng ở Nam bộ, mộ này cũng có trong lăng Hoàng Gia (Gò Công, Tiền Giang), Lăng Mạc Cửu (Hà Tiên, Kiên Giang), Lăng Thoại Ngọc Hầu (Châu Đốc, An Giang).

Tại Sài Gòn, mộ dạng này phổ biến gắn với nhiều danh tướng – danh sĩ – danh nhân thời các Chúa Nguyễn và Vua Nguyễn (nhiều nhất 2 thế kỷ 18-19). Có thể thấy kiểu mộ này ở mộ anh em tổng đốc Lê Văn Duyệt, Lê Văn Phong, Phó tổng trấn Gia Định Huỳnh Công Lý, Thượng thư Trần Văn Học, Võ Di Nguy, Trương Tấn Bửu và kể cả dạng mộ tưởng niệm dành cho quận công Võ Tánh (trên đường Hồ Văn Huê, Q.Phú Nhuận)…”, ông Mạnh phân tích thêm.

Cổ mộ của ai ?

Đi quanh, tìm hiểu thêm ngôi mộ, ông Mạnh chỉ cho chúng tôi tấm bia mộ hiện còn một số chữ Hán. Ông Mạnh cho biết, hai bia mộ này do các con lập. Một bia đề : “Hiển khảo trọng giang (?) Ất Mùi (vị) (?) thu quyên (?) chủ húy tự trường Lâm Tam Lang chi mộ”  tức mộ cha là con trai thứ ba Lâm gia.

9 Co mo 3Bia kế bên là : “Hiển tỷ… chủ lâm nguyên thất… chi mộ”  – dịch nghĩa là mộ mẹ… vợ nhà họ Lâm.

Ông Mạnh cho biết, theo truyền tụng, đây là mộ ông Lâm Tam Lang tự “Nguyên thất” mất vào mùa thu Ất Mão (1795) và bà Mai Thị Xã – vợ ông. Họ Lâm người gốc Quảng Đông.

Đặc biệt, hậu duệ đời thứ 4 của ông Lâm Tam Lang là cụ Lâm Quang Ky – Phó lãnh binh của anh hùng dân tộc Nguyễn Trung Trực. Phó lãnh binh Lâm Quang Ky là người đã góp phần không nhỏ trong trận chiến thắng Nhật Tảo.

Hậu duệ đời thứ 7 của ông Lâm Tam Lang là ông Lâm Đình Phùng – chính là nhạc sĩ nổi tiếng Lam Phương.

Sát vách tường bao bên phải còn một mộ nhỏ tương truyền là của thuộc tướng bị bại trận đã tự sát chôn theo chủ nhân mộ chính.

Trong khi đó, lần dỡ thêm một đầu mối khác thì theo Danh mục kiểm kê di tích lịch sử-văn hóa trên địa bàn Sài Gòn giai đoạn 2010-2020 của Sở Văn hóa – Thể thao – Du lịch (VH-TT-DL), mộ cổ mang họ Lâm trong công viên Tao Đàn, được xây dựng năm Ất vị (1895).

“Tổng thể công trình kiến trúc được bảo tồn tương đối nguyên vẹn. Đây là một trong những ngôi mộ hợp chất có diện tích lớn và kiến trúc đẹp còn lại ở Sài Gòn”, đánh giá hiện trạng di tích trong Danh mục kiểm kê di tích lịch sử – văn hóa trên địa bàn Sài Gòn giai đoạn 2010-2020.

dmv1381563462Qua đó, theo Sở VH-TT-DL : “Sự tồn tại của mộ cổ mang họ Lâm góp phần đáng kể cho ngành khảo cổ học và nghiên cứu khoa học về loại hình mộ cổ của Việt Nam”.

“Cụm mộ trên là một trong những kỷ niệm cuối cùng của những thế hệ tiền hiền – hậu hiền trong nhiều lớp lương dân đi “mở nước” và xây đắp lãnh thổ và lãnh hải trên các nẻo đường thiên lý hướng về Nam”, Phó giáo sư – tiến sĩ Phạm Đức Mạnh kết luận.

Vì vậy, theo ông Mạnh, các ngôi mộ trong công viên Tao Đàn mang ý nghĩa linh thiêng. Cụm mộ ở đây cũng như rất nhiều công trình cổ mộ khác vẫn được người dân Sài Gòn và Nam bộ tôn thờ và nhang khói thường niên, là biểu trưng cho truyền thống đạo lý “thờ cúng tổ tiên”, “uống nước nhớ nguồn” của người dân Việt Nam. Cùng với đình chùa, những ngôi mộ cổ là đối tượng cần bảo tồn, gìn giữ. (theo Viên An)

Logo nhan vat

9 Lam Phuong 5NHẠC SĨ LAM PHƯƠNG

TÀI HOA MỘT ĐỜI

Sở dĩ con người của Lam Phương như vậy là bởi tuổi thơ của ông ở miền quê Rạch Giá: nghèo nàn, thiếu thốn nhưng rào rạt yêu thương.

Lam Phương tên thật là Lâm Đình Phùng, sinh ngày 20/3/1937 tại Rạch Giá. Ông là con trai trưởng trong một gia đình gồm 6 người con. Các em của ông không ai theo con đường âm nhạc hay nghệ thuật gì cả.

Thời Thế Chiến thứ 2, miền quê miền Nam VN thường bị phi cơ của quân đội Đồng Minh (the Allied Forces) dội bom để đánh Nhật (lúc đó đang chiếm đóng toàn cõi Đông Dương). Nhiều gia đình đã phải lánh nạn, đàn ông đi trước dò đường tìm nơi định cư rồi trở về đón gia đình đi theo. Ba của Lam Phương cũng bỏ Rạch Giá lên Saigon tìm đường sinh sống nhưng . . . ông không trở về đón vợ con. Ông ở lại và có nhiều gắn bó với những người đàn bà khác. Kết quả là Lam Phương có rất nhiều em cùng cha khác mẹ.
Bởi vậy, Lam Phương rất thương mẹ. Ông đã dồn hết lòng thương yêu cho người mẹ nghèo nàn, quê mùa đau khổ nhưng thương con vô cùng. Và cũng bởi lòng yêu thương người mẹ hiền mà Lam Phương đã quyết tâm vượt mọi trở ngại để thành công cho bằng được trong sự nghiệp âm nhạc của mình.

Cách đây 3 năm, Lam Phương đã tâm sự bằng giọng miền Nam chân chất và nụ cười hiền hòa : – Tôi thương má tôi lắm. Má tôi là một người đàn bà quê mùa nhưng mà thực lòng thương tôi lắm. Con trai lớn mà ! Má tôi nói một câu thôi mà tôi đã ráng làm muốn chết luôn !

Hình ảnh người mẹ hiền lúc nào cũng phảng phất trong lời ca đơn sơ của ông, nhất là những nhạc phẩm đầu tiên vào giữa thập niên 50. Năm 1947, cuộc sống của gia đình ở miền quê Rạch Giá quá khó khăn nên người con trai trưởng đầu còn xanh chỉ mới 10 tuổi đã phải bơ vơ lên Saigon một mình bỏ lại mẹ và các em để kiếm ăn và . . . để giúp gia đình.

9 Lam Phuong 2Lam Phương đến tá túc tại nhà một người dì ở Tân Định. Khi tạm ổn định, mẹ ông dẫn các em lên theọ Cả gia đình dọn về một ngôi nhà mướn tồi tàn, chật hẹp trong một căn hẻm lầy lội tăm tối ở vùng Da Kao. Những đêm mưa dù không lớn, nước chảy vào nhà, từ trên mái xuống, từ ngõ trước vào và cũng trong một đêm mưa năm 1954 như vậy, Lam Phương đã quá tủi thân cho cảnh cơ cực, bi đát của gia đình nên sáng tác bản “Kiếp Nghèo”. Lúc đó, Lam Phương còn đang học Trung Học.

Đây là thời kỳ Lam Phương bi quan nhất. Suốt tuổi thanh niên, Lam Phương đã sống trong cơ cực nên từ đó tư tưởng bi quan đã hằn sâu trong đầu óc ông. Ta có thể tìm thấy sự bi quan này trong rất nhiều tác phẩm của Lam Phương trong thập niên 60, 70 và sau này ở hải ngoại. Một nhạc phẩm nữa cũng được Lam Phương sáng tác để nói lên cảnh nghèo của gia đình thời còn ở Đa Kao : “Đèn Khuya”, sáng tác năm 1958. Cả hai bài KN và ĐK đều được Thanh Thúy (là ca sĩ ăn khách số 1 của miền Nam lúc đó) trình bày và đều là top ten đầu thập niên 60.

Riêng bài KN thì đã bị dân gian sửa lời Thật ra, Lam Phương là nhạc sĩ tân nhạc có sáng tác bị dân gian sửa lời nhiều nhất trong suốt 68 năm tân nhạc VN (1938 – 2001). 80% sáng tác của ông, nếu không bị Trần văn Trạch, Tùng Lâm, Phi Thoàn và các hề cải lương sửa lời thì cũng bị các anh hùng hè phố, đạp xích lô sửa lời. Lý do: nhạc Lam Phương đã đi vào lòng của giới nghèo.

Sự nghiệp âm nhạc của Lam Phương bắt đầu bằng tấm lòng thương mẹ. Lúc mới mười mấy tuổi, mẹ ông thường nói với ông niềm mơ ước nhỏ bé được có một nơi trú ngụ… đỡ tồi tàn hơn. Câu nói của mẹ là ngọn lửa nung đúc Lam Phương trong thập niên 50 khi Lam Phương chập chững bước vào âm nhạc với quyết tâm là ông sẽ nuôi mẹ và các em bằng âm nhạc. (It was very lucky that he did it because in VN then, you simply couldn’t).

(Ngày nay, tuy đã hơn 60 tuổi nhưng mỗi lần nhắc đến mẹ là ông xúc động và bật khóc nức nở. Ông khóc thành tiếng, những giọt nước mắt chảy đầm đìa xuống đôi gò má khiến người nào đối diện cũng phải mủi lòng. 9 Lam Phuong 3Mẹ ông qua đời năm 1979). Bởi tính tình chất phác, Lam Phương được một thầy “lang băm” tân nhạc thương hại rồi dạy miễn phí căn bản nhạc lý. Tuy nhiên, Lam Phương học ông thầy này thì ít nhưng “học lóm” thì nhiềụ Thế mà cho đến nay, Lam Phương lúc nào cũng nhắc nhở và nhớ ơn vị thầy tốt bụng này cả.

Với chút vốn liếng, năm 1952, Lam Phương sáng tác nhạc phẩm đầu tay của mình tên “Chiều Thu Ấy” và dĩ nhiên là chẳng ai muốn biết đến. Năm 1954, “Chuyến Đò Vĩ Tuyến” và “Kiếp Nghèo” mới thực sự tạo tên tuổi cho ông. Từ đó, sự nghiệp của LP chắp cánh.

Ban đầu, cùng với Hoàng Thi Thơ, Lam Phương chuyên sáng tác loại dân ca theo thể điệu mambo của Nam Mỹ. Điều lạ lùng là loại nhạc mới này đi vào mọi tầng lớp quần chúng thật nhanh. Có người độc miệng gọi đó là “dân ca mắm bò”. It was the lucky break for Lam Phương. Có lẽ trời không muốn phụ lòng kẻ thương mẹ.

Đây là những bản nhạc thịnh hành của LP theo điệu mambo thời đó : Khúc Ca Ngày Mùa, Trăng Thanh Bình, Nhạc Rừng Khuya. Những bản nhạc của Lam Phương có số bán rất chạy vào cuối thập niên 50 như : Chuyến đò vĩ tuyến, Đoàn Người Lữ Thứ, Sầu Cố Đô, Lá Thư Miền Trung, Bức Tâm Thư.

“Nắng Đẹp Miền Nam” (NĐMN) Bài này do Hồ Đình Phương đặt lời, HDP là một thi sĩ gốc người Huế, làm thơ không được nổi tiếng lắm nhưng đặt lời nhạc thì phải nói là tuyệt. Thanh Nam (nhà văn cũng là chồng nữ văn sĩ Tuý Hồng, Không phải Túy Hồng, ca sĩ kiêm kịch sĩ mà sau này là vợ thứ 1 của Lam Phương) và HDP là 2 chuyên gia đặt lời thời đó. Họ đặt lời cho Hoàng Trọng (vua Tango), Văn Phụng (vua Blue đen), Nguyễn Hiền, Nhật Bằng, Châu Kỳ, Lam Phương.

Bài NĐMN nhờ ca sĩ Kim Hoàng (từ cải lương nhảy qua tân nhạc) hát lần đầu tiên tại Đại Nhạc Hội mà nổi tiếng như cồn. Sau đó dĩa hát vòng có bài này được bán chạy như tôm tươị Và cũng từ đó, Lam Phương thoát khỏi “Kiếp Nghèo”.

Năm 1958, Lam Phương nhập ngũ. Từ đó, ông xoay qua sáng tác nhạc lính (những bản nhạc nổi tiếng như “Chiều Hành Quân”, “Tình Anh Lính Chiến”, “Kiếp Tha Hương“). Năm 1959, ông giải ngũ rồi gia nhập ban văn nghệ Bảo An và đoàn Hoa Tình Thương. Sau đó, Lam Phương cộng tác với Đài Phát Thanh Quân Đội, Saigon, Biệt Đoàn Văn Nghệ.
Ngoài việc sáng tác, Lam Phương còn cộng tác với những ban nhạc trên các đài phát thanh như ban Hoàng Lang, Võ Đức Tuyết, Văn Phụng, ban kịch Thẩm Thúy Hằng và ban kịch Sống của kịch sĩ Tuý Hồng (vợ Lam Phương). Một chi tiết ít người biết là ông thường trình diễn vào ban đêm tại một Club dành cho sĩ quan Mỹ trên lầu rạp Rex ở Saigon vào cuối thập niên 60 (lúc mới lập gia đình với Túy Hồng).

9 Tuy Hong 1Ở đây xin mở ngoặc để nói sơ về Túy Hồng một chút. Túy Hồng ban đầu chỉ biết đóng kịch và là một kịch sĩ nổi tiếng của ban thoại kịch Tân Dân Nam và Kim Cương, sau nhờ Túy Hồng chỉ dẫn nên hát rất nghề. Những bản nổi tiếng của Túy Hồng như “Chiều Tàn”, “Đèn Khuya”, “Mộng Ước”, “Tình Nghĩa Đôi Ta Chỉ Thế Thôi” và nhất là “Phút Cuối” được Túy Hồng trình bày thật truyền cảm. Giọng Túy Hồng trong nhưng hơi chát. Túy Hồng ngân rất điêu luyện. Tiếc là khán giả chỉ mến kịch sĩ Túy Hồng chứ không mến ca sĩ Túy Hồng.

Như đã nói ở trên, cuộc sống vật chất của Lam Phương đã sáng sủa hơn rất nhiều một thời gian sau khi nhạc phẩm “Nắng Đẹp Miền Nam” được tung ra và lại càng sáng sủa hơn sau “Tình Anh Lính Chiến” và “Chiều Hành Quân”. Đây là 2 nhạc phẩm do chính Lam Phương xuất bản và tự phát hành. Số lượng bán 2 nhạc phẩm này phải nói là kỷ lục. Lúc này, ông đã có xe gắn máy (Lambretta) để chạy rồi (và cũng để giao nhạc lẻ cho các sạp bán nhạc rời ở Saigon).

Cuối thập niên 60 là giai đoạn vàng son nhất của Lam Phương. Ông đã bớt bi quan. Trước sự thành công của ông, một số nhà xuất bản xúm nhau lại “đánh hội đồng” tẩy chay không phổ biến những tác phẩm của ông. Tuy nhiên, khi thấy Lam Phương tự xuất bản và phát hành mà vẫn thành công và tên tuổi lại càng đi lên thì sau đó nhiều nhà phát hành lớn đã thương lượng để mua những tác phẩm của ông với giá thật cao. Trong thời gian này, Lam Phương đã mua được một căn nhà khang trang trong cư xá Lữ Gia rồi đến năm 1972, ông mua thêm được một căn nhà khác trên đường Nguyễn Tri Phương. Thế là ước mơ của mẹ ông gần 20 năm trước đã được toại nguyện.

Ngày 30/4/1975, ông rời VN trên tàu Trường Xuân cùng với gần 4,000 người khác và là một trong những người Việt Nam đầu tiên đến định cư ở Mỹ. Sau một thời gian cư ngụ tại California, Lam Phương qua Paris sống một thời gian.

Ra hải ngoại, dòng nhạc LP có rất nhiều thay đổị Trước hết, trong thời gian ở Paris, khung cảnh mới lạ mang tính chất lãng mạn và cổ kính của thành phố đó đã ảnh hưởng sâu xa đến dòng nhạc của ông. Ông cảm thấy thoải mái hơn trong việc sáng tác, có dịp sống thật với chính mình và không bị vướng bận về vấn đề thương mại, sinh kế như khi còn ở VN. Trong thời gian này, nhiều nhạc phẩm đặc sắc ra đời như : Mùa Thu Yêu Đương, Tình Hồng Paris, Cho Em Quên Tuổi Ngọc, v.v… Lời nhạc của Lam Phương ở hải ngoại có vẻ bóng bẩy hơn khi còn ở trong nước. Đối tượng của ông bây giờ không còn là giới bình dân nữạ

9 Tuy Hong 2Ông bảo lãnh Túy Hồng sang đoàn tụ. Sau đó không lâu, cuộc hôn nhân giữa Lam Phương và Túy Hồng tan vỡ. Lời nhạc của ông bắt đầu hiện rõ nét chua xót, đắng cay như bài “Tình Vẫn Chưa Yên” chẳng hạn. Sự ngao ngán, thất vọng về cuộc đời, tình người đã khiến Túy Hồng, một người hiền từ, ăn nói nhỏ nhẹ, cư xử thật khiêm tốn phải xúc cảm để có những lời nhạc thống thiết, uất ức như trong bài “Lầm”.

Sau sự đổ vỡ này, LP đã sống những chuỗi ngày thật đau khổ. Cũng nhờ đó mà ông đã cho ra đời nhiều sáng tác đặc sắc mà điển hình là bài “Một Đời Tan Vỡ”.
Sau đó, Túy Hồng tìm được nguồn an ủi trong một cuộc tình rồi biến thành cuộc hôn nhân mới với người vợ tên Diệu cho đến hôm naỵ Lam Phương như tìm lại sức sống mới. Từ đó, những nhạc phẩm như “Từ Ngày Có Em Về”, “Tình Đẹp Như Mơ” ra đờị Dòng nhạc Lam Phương không những phong phú mà còn tha thiết, sống động hơn như ta có thể tìm thấy trong “Bài Tango Cho Em”, “Cỏ Úa”, “Một Mình”.

Cuối thập niên 90, Lam Phương bị bệnh tiểu đường và có lượng cholesterol cao. Ngày 13/3/1999, do biến chứng của bệnh tiểu đường, ông đã phải vào bệnh viện cấp cứu và từ đó Lam Phương bị liệt. Biến cố này đã đưa LP về lại với nỗi bi quan vốn đã đeo đuổi theo ông từ thuở còn thanh niên. (theo hoangvu)

Lan Hương chuyển tiếp

Ca nhacNhững ca khúc của nhạc sĩ Lam Phương

– Chuyến đò vĩ tuyến – Giao Linh

http://youtu.be/V634FEJrusk

– Đèn Khuya – Thanh Thúy

http://youtu.be/ZPVvKO3nmGQ

– Một mình – Quang Dũng

https://www.youtube.com/watch?v=m_B1mBTmpXE

– Chuyến đò vĩ tuyến – Hoàng Oanh

http://youtu.be/8-6sbyFZFL8

– Bức tâm thư – Tuấn Vũ & Ngọc Đan Thanh

http://youtu.be/5jeMNBivXzg

Quế Phượng (tổng hợp)

2 bình luận

Bình luận về bài viết này