NHỮNG “MỸ NHÂN” SÀI GÒN

Logo nhan vat 1

9 Thai Thanh 1DANH CA THÁI THANH

TIẾNG HÁT VƯỢT THỜI GIAN

ĐÃ BỊ ALZHEIMER

Gửi những ai yêu tiếng hát Thái Thanh để “vĩnh biệt linh hồn” người ca sĩ tài danh này: tuy bà chưa chết nhưg linh hồn Bà đã bị gã Alzheimer (là bệnh thoái hóa cả não bộ không hồi phục) cướp đi rồi. Bà hiện sống trong Nursing Home tại Hoa Kỳ.

Không chỉ một người, tiếp cận “hiện tượng” Thái Thanh từ góc độ “tiểu sử” – một tiểu sử “trải dài” vài thời kỳ lịch sử thăng trầm của đất nước, mà chủ yếu là “đất nước” VNCH trước 1975 – cùng toàn bộ gia tài đồ sộ năm bẩy trăm ca khúc bà đã hát từ dân ca, tình ca, tâm ca, bi ca, hoan ca, hùng ca, đạo ca…, đã gọi bà là tiếng “khóc cười theo mệnh nước nổi trôi“.

Cũng không chỉ một người, từ góc độ “thưởng thức ca nhạc”, mệnh danh bà là “tiếng hát vượt thời gian”, “giọng ca vàng không tuổi” – chính xác là “The Ageless Golden Voice“, như được in trên bìa một băng nhạc Sài Gòn xưa. Những danh xưng ấy dành cho Thái Thanh tất nhiên không thuyết phục tất cả mọi người, mà chỉ đúng đối với những ai yêu mến bà. Vì sao ? Giọng hát của nữ danh ca này không dành cho những đôi tai :

– không chuộng các “âm tần cao“

– và/hay không chuộng các “cường độ biểu cảm – đặc biệt là bi cảm quá lớn” (gọi nôm na là “quá mùi“).

Tuy nhiên con số những kẻ yêu (giọng hát) Thái Thanh là không nhỏ, và trong số ấy cũng không hề thiếu những tên tuổi lớn các nhà làm văn học nghệ thuật (như nhạc sĩ Phạm Đình Chương, nhạc sĩ Phạm Duy, nhạc sĩ Cung Tiến, danh cầm Nghiêm Phú Phi, 9 Thai Thanh 2nhà văn kiêm nhà thơ Thanh Tâm Tuyền, nhà văn Mai Thảo, nhà thơ Nguyên Sa, …), cho nên những lời xưng tụng dành cho người ca sĩ ấy không thể “hàm hồ” được; chúng tất yếu phải “chính xác” và “xứng đáng”.

Trong chủ quan hạn hẹp của người viết bài này, tiếng hát Thái Thanh có thể ví như một “đặc sản”, chỉ dành cho những kẻ “sành điệu”, đồng thời cũng từ chối quyết liệt những ai không là “đồng điệu”.

Bạn sẽ nhăn mặt : “Làm gì có một đặc sản như thế” ? Xin thưa rằng có : Quả sầu riêng ! Đúng vậy, mặc ai có thể “bịt mũi xua tay”, vẫn không hiếm người lõi đời “nghiện” nó, xem nó là “số Một“, và nó luôn là một trong những loại quả “quí và đắt nhất”. Vậy thì, vâng, có nhiều người tôi quen biết “nghiện” Thái Thanh (và nghiện cả sầu riêng) ! Thậm chí đối với họ chỉ có mỗi một mình Thái Thanh biết “hát”, còn những ca sĩ khác chỉ là “phát âm một cách khổ sở”. (Tôi nhớ đến truyện biếm “Tiếng hát” khi nghe ai phát biểu về Thái Thanh tương tự như vậy.)

Nói về “ngôi vị” của Thái Thanh trong giới ca sĩ Sài Gòn trước 75 có lẽ không ai chính xác bằng “người trong giới”, đặc biệt là một trong các danh ca hàng đầu thuở ấy – Lệ Thu.

Năm 1970, nhân chuyến tham dự khai mạc Hội Chợ Osaka, Nhật Bản, Lệ Thu đã trả lời phỏng vấn của báo chí : “Nếu chị Thái Thanh có mặt ở đây và hát, mọi người sẽ cúi đầu khâm phục !“. Cũng chính Lệ Thu, trong một ca khúc hải ngoại nhớ về Sài Gòn, đã “sửa” ca từ của một câu khi hát “Đâu rộn ràng tiếng hát Thái Thanh ?” Kiêu ngạo và đắt giá nhất trong giới ca sĩ ngày đó, Lệ Thu chỉ chấp nhận “nghiêng đầu” trước Thái Thanh.
Sự thật thì sao ? Mặc dầu Thái Thanh đi trước cả về tuổi đời lẫn tuổi nghề so với hai diva Lệ Thu và Khánh Ly (cũng như với hầu hết các ca sĩ khác), giọng ca lẫn cách hát của bà vẫn “trẻ trung”, “hiện đại” và “độc đáo” nhất, đặc biệt với những ca khúc này :

9 Thai Thanh 71) CHUYỆN TÌNH BUỒN – 2) ĐẠO CA 8 – GIỌT CHUÔNG CAM LỘ – 3) ĐẠO CA 9 – CHẮP TAY HOA – 4) ĐÊM MÀU HỒNG – 5) NGÀY XƯA HOÀNG THỊ – 6) RU TA NGẬM NGÙI – 7) TẠ ƠN ĐỜI – 8) TIẾNG HÁT TO – 9) TÌNH SẦU DU TỬ LÊ

Tôi vẫn tin là bạn không cần nhìn các ca sĩ (Việt Nam) “làm trò” khi họ hát, mà chỉ cần nghe cách phát âm cũng đủ để phân biệt và xếp hạng họ là loại ca sĩ nào. Nhưng đối với Thái Thanh thì khác, bạn nên ngắm “khẩu hình” của bà lúc bà hát – cái cách bà cấu âm (articulate) từng “âm”, từng “chữ” – chuyển động của má, môi, cơ miệng, lưỡi, hàm (răng) trên, hàm (răng) dưới, xương quai hàm; điều đó tác động đến cả cặp lông mày, cũng như vầng trán, và tất nhiên rồi, cả đôi mắt nữa. Mà không chỉ thế, hãy nhìn thanh quản ở cổ, nhìn hai vai, và tay,.., của người hát.

Cách “phát âm” / “cấu âm” của Thái Thanh, bắt đầu từ “bộ máy phát âm”, đã tác động hoàn toàn tự nhiên đến các cơ trên mặt, rồi lan tỏa toàn thân. Khi hát, Thái Thanh như “đang bơi”, hay “đang bay”, (theo nghĩa đen) trong âm nhạc, và toàn bộ ngôn ngữ cơ thể của người ca sĩ ấy toát lên thông điệp này: Được cất tiếng hát, đối với bà, là Tất Cả – là Sự Sống, là Hạnh Phúc vô bờ.

9 Ban Thang Long 1Nghe Thái Thanh hát :

– Ly Rượu Mừng – Ban Thăng Long

http://youtu.be/GZqrU3moBDU

– Giòng sông xanh – Thái Thanh (2 versions)

http://youtu.be/tbu20rB1ZiQ

– Tinh Ca – Thái Thanh

http://youtu.be/mkpj-Ht-66o

Ban Thang Long– Nụ Tầm Xuân – Bài Ca Sao – Thái thanh / Ý lan

http://youtu.be/N27s9lfynDI

– Hòn Vọng Phu 1-2-3 nhạc Lê Thương – Thái Thanh & nhóm Ngàn Khơi

http://youtu.be/DaytgQnL3Fo

– Ban Hợp Ca Thăng Long : An homage

http://youtu.be/vw080V85AKE

– Liên khúc Phạm Duy – Thái Thanh

http://youtu.be/VvnkWpyE2R8

Tiểu sử

Phạm Thị Băng Thanh sinh năm 1934 tại Hà Nội trong một gia đình có truyền thống văn nghệ. Cha của bà là ông Phạm Đình Phụng, có 2 vợ, vợ trước sinh ra Phạm Đình Sỹ và Phạm Đình Viêm, vợ sau sinh ra Phạm Thị Quang Thái, Phạm Đình Chương và con út là Phạm Thị Băng Thanh.

Năm 1951, Băng Thanh đi hát theo chị Quang Thái trong vùng kháng chiến với nghệ danh Thái Thanh. Cũng trong năm này Thái Hằng cưới nhạc sĩ Phạm Duy. Khi gia đình Phạm Duy dinh tê về Hà Nội rồi chuyển vào Sài Gòn sống, Thái Thanh cũng đi theo.

9 Thai Thanh 5

Năm 1956, Thái Thanh kết hôn với tài tử Lê Quỳnh tại Sài Gòn. Bà sống ở khu vực gần chợ Thái Bình. Năm 1965 bà ly dị Lê Quỳnh sau khi đã có chung với nhau 3 con gái và 2 con trai. Sau biến cố 1975, bà ở lại Việt Nam cho đến năm 1985 thì sang Hoa Kỳ định cư.

Gia đình

Gia đình Thái Thanh có nhiều người thành danh trong lĩnh vực âm nhạc, ngoài Thái Thanh ra, thì chị Phạm Thị Quang Thái Le Quynh 1cũng là ca sĩ nổi tiếng với nghệ danh Thái Hằng. Anh trai bà, Phạm Đình Chương là một nhạc sĩ lớn của tân nhạc Việt Nam và cũng là một ca sĩ với nghệ danh Hoài Bắc. Người anh cùng cha khác mẹ Phạm Đình Viêm được biết đến nhiều với nghệ danh Hoài Trung. Bốn anh chị em Thái Hằng, Thái Thanh, Hoài Trung, Hoài Bắc, đều trong ban hợp ca Thăng Long nổi tiếng thời bấy giờ

Thái Thanh trở thành em dâu của nhạc sĩ Phạm Duy sau khi ông này lấy Thái Hằng làm vợ, nên cũng là dì của các ca sĩ Duy Quang, Thái Hiền, Thái Thảo sau này. Ngoài ra bà còn là cô ruột của ca sĩ Mai Hương, con gái Phạm Đình Sỹ và kịch sĩ Kiều Hạnh.

Thái Thanh có với tài tử Lê Quỳnh 5 người con : con cả là Lê Thị Ý Lan sinh năm 1957, Lê Xuân Việt sinh năm 1958, Lê Thị Quỳnh Dao sinh năm 1960, Lê Thị Thanh Loan sinh năm 1962 và Lê Đại sinh năm 1964. Trong số đó, Lê Thị Ý Lan sau này trở thành ca sĩ nổi tiếng Ý Lan, còn Lê Thị Quỳnh Dao cũng đi hát với nghệ danh Quỳnh Hương. Các cháu ngoại của bà cũng có nhiều người đi theo con đường ca hát như Mai Linh, Ý Thi, Thanh Hương, Quỳnh Trang

CS Thai Thanh 2Sự nghiệp

Phạm Thị Băng Thanh bắt đầu sự nghiệp ca hát từ năm 13-14 tuổi. Bà sở hữu một giọng hát cũng như lối hát đặc biệt, mang tính chất opera nhưng chịu nhiều ảnh hưởng của Chầu văn, quan họ, chèo là những bộ môn nghệ thuật được bà tự rèn luyện, học tập từ thuở nhỏ tại quê hương miền Bắc. Giọng hát của bà có âm vực rộng, nằm giữa nữ trung và nữ cao, nên thể loại nhạc bà hát cũng rất đa dạng, phong phú.

Thời kỳ đầu, bà đi hát theo chị là ca sĩ Thái Hằng ở các chiến khu Việt Minh với các bài tân nhạc thời kỳ đầu, hay các bài dân ca mới của Phạm Duy. Đến năm 1951, bà chính thức lấy nghệ danh Thái Thanh cho giống người chị Thái Hằng.

Năm 1951, bà theo gia đình Phạm Duy vào Sài Gòn lập nghiệp. Tại đây bà tiếp tục đi hát với các chủ đề về quê hương và tình cảm đôi lứa. Giọng hát của bà tỏ ra rất thích hợp với các loại nhạc đa dạng của nhạc sĩ Phạm Duy, từ những bài nhạc kháng chiến, nhạc quê hương, nhạc tình, nhạc xã hội, cho tới các bản trường ca đều được bà để lại một dấu ấn lớn. Bên cạnh đó, bà cũng là ca sĩ hát thành công rất nhiều ca khúc tiền chiến xưa, hay nhạc tình đương thời của các nhạc sĩ trẻ hơn.

Bà thật sự nổi tiếng trong thập niên 1950, được rất nhiều giới yêu thích từ giới trí thức cho tới bình dân. 9 Thai Thanh 6Bà được coi như một diva tầm cỡ nhất của Việt Nam thời đó. Tiếng hát của bà ngự trị trên khắp các chương trình ca nhạc truyền thanh, truyền hình của Việt Nam Cộng Hòa. Trong giai đoạn đầu thập niên 1970, bà cùng với ban hợp ca Thăng Long thường xuyên biểu diễn tại vũ trường ăn khách Đêm màu hồng.

Sau biến cố 30 tháng 4 năm 1975, Thái Thanh ở lại Việt Nam. Ban đầu bà được chính quyền mời biểu diễn các ca khúc cách mạng, nhưng Thái Thanh không chấp nhận. Do không có thái độ cầu thị, bà bị cấm hát suốt 10 năm, cho đến khi rời khỏi Việt Nam.

Năm 1985, Thái Thanh sang Hoa Kỳ định cư cùng với gia đình. Tại đây bà tiếp tục đi diễn, thâu âm, tham gia những đêm nhạc lớn cho mình. Bà là khách mời danh dự của nhiều đêm nhạc hội lớn của Paris By Night. Bà cũng được mời thu thanh trên nhiều CD của trung tâm Diễm Xưa. Tại quận Cam, bà cùng với nhạc sĩ Nghiêm Phú Phi từng mở ra một lớp dạy hát, đào tạo ra một số ca sĩ trẻ.

9 Thai Thanh 8Năm 2002, bà chính thức tuyên bố giải nghệ sau một đêm diễn cùng với các con cháu. Tuy nhiên khoảng thời gian sau đó, thỉnh thoảng bà vẫn tham gia giọng hát của mình vào các đêm diễn với vai trò đặc biệt.

Năm 2005, một đêm nhạc thính phòng nhằm mang tên “Vinh danh Thái Thanh, tiếng hát vượt thời gian” được tổ chức tại Montreal, Canada, với sự tham gia của Thái Thanh cùng nhiều ca sĩ nổi tiếng của thế hệ sau như Tuấn Ngọc, Ý Lan, Trần Thu Hà,… Trong đêm nhạc này màn trình diễn của bà được đánh giá là xuất sắc, dù trước đó đã có nhiều nghi ngờ về tuổi tác, cũng như sức khỏe của bà.

Năm 2006, bà trở lại là nhân vật chính trong đêm nhạc “Thái Thanh và ba thế hệ”.

Clip : Ngày Tết của gia đình nghệ sĩ Thái Thanh – Ý Lan – Quỳnh Hương

http://youtu.be/Wqz4XJKijDY

Đánh giá

Giọng ca Thái Thanh được giới nghiên cứu đánh giá cao, và cũng là đề tài ca ngợi của giới văn nghệ sĩ tại miền Nam trước 1975 và tại hải ngoại sau 1975. Nhạc sĩ Phạm Duy, người song hành với Thái Thanh trong phần lớn các ca khúc của mình, 9 Ban Thang Long 4từng cho rằng không ai có thể thay thế được Thái Thanh trong sự diễn tả những sáng tác của ông.

Nhà văn Nguyễn Đình Toàn là tác giả của nhiều bài viết về Thái Thanh, phần lớn là những bài phát biểu cảm tưởng. Theo ông, trường hợp của Thái Thanh là một “trường hợp hãn hữu”, và “Máu lửa, chiến tranh, bom đạn, chia cắt, người sống, người chết, nước mắt, mồ hôi, thấm nhập vào âm nhạc của chúng ta như thế nào, đều được phản ánh qua tiếng hát Thái Thanh.”

Bên cạnh đó, nhiều nhà phê bình, văn nghệ sĩ cũng có những bài nhận định về Thái Thanh, những bài này thường mang tính ca ngợi, như Thái Thanh – tiếng hát trên trời của Thụy Khuê, Thái Thanh – tiếng mẹ sinh từ lúc nằm nôi của Đỗ Việt Anh, Nụ tầm thanh của Hoàng Hải Thủy… Giọng hát Thái Thanh được nhà văn Mai Thảo tặng cho một biệt danh mà sau này thường được người ta nhắc đến, một cách trân trọng, bên nghệ danh của bà : “Tiếng hát vượt thời gian”.

9 Thai Thanh 9Một số trích dẫn

“Tiếng hát vượt thời gian” Mai Thảo

“Tôi thấy được hết những hạch tuyến nơi cổ họng, những tế bào, những bộ phận lớn nhỏ đã phụ họa với nhau để phát ra những âm thanh trong, ấm, thanh tao và diệu kỳ kia. Tôi chưa gặp Thái Thanh lần nào cả, Steve ạ. Hãy nghĩ rằng cô trẻ, đẹp và đằm thắm như giọng hát của cô, và chỉ giữ lại từng đó thôi. Nếu ta nghiêng mình lệch đi một tý, bình diện với thời gian thay đổi, thì cô Thái Thanh đã ở bên kia tự bao giờ rồi, ví dụ năm ngàn năm về trước hoặc năm ngàn năm về sau.” Thích Nhất Hạnh

9 Thai Thanh 3“Em hát cho vàng tan nát đá

Em hát cho anh biết ngậm ngùi”

Hoàng Hải Thủy

“Sau khi nghe nàng hát, có khi chúng ta cảm thấy nơi chính mình một chút bâng khuâng, lúc bấy giờ có lẽ là niềm “nhớ nhung cõi trời” -mà Beaudelaire đã nói- dù sao giọng hát Thái Thanh vẫn không phải là giọng u buồn. Giọng Thái Thanh là một giọng ca hoan lạc, giọng hát của hạnh phúc ca xướng, giọng hát của hạnh phúc nói chung. Hãy nghe nàng vào lúc cao hứng nhất, khi giọng hát của nàng vụt nở như một nụ cười hiền dịu hướng về cõi đời này, hãy chăm chú lắng nghe… Giọng hát Thái Thanh lúc đó qua từng nhịp thơ và từng nhịp nhạc, như chỉ muốn nói với ta có một lời. Lời nói tình yêu.” Georges Etienne Gauthier (theo Wikipedia)

Đời sắp hết, mà sao sầu chưa hết ?

Bao lo toan, không một chuyện ra hồn !

9 My nhan 1GIAI THOẠI LY KỲ

VỀ NHỮNG “MỸ NHÂN” SÀI GÒN

Trước 1975, những nhan sắc lẫy lừng thường mang theo tai họa hoặc ít nhiều… mắc đọa !

1/- Một nhân vật mà những người từng sống ở miền Nam qua thời cái gọi là đệ I và đệ II Cộng hòa trước 1975 đều biết hoặc nghe nhắc tới – vũ nữ Cẩm Nhung, mỹ nữ số một Sài Gòn. Là một gái nhảy chuyên nghiệp, cô đã làm rất nhiều công tử hào hoa đất Sài Gòn phải chết mê chết mệt. Cuối cùng cô cặp hẳn với trung tá Thức Công Binh. Vào thời Diệm-Nhu, cấp bậc trung tá không nhiều. Sống với nhau theo kiểu già nhân ngãi non vợ chồng được một thời gian, sau khi đã cắt đi hầu hết những quan hệ tình ái phức tạp khác, Cẩm Nhung nghĩ rằng mình có thể trở thành trung tá phu nhân…

Mọi việc đến tai bà Năm Ra đô, (“hỗn danh” vùng nhà lô Cô Bắc dành cho chính thất của trung tá Thức. Một kế hoạch tiêu diệt tình địch được tiến hành. Hai tên giang hồ có cỡ được thuê với giá 2 lượng vàng. Một ca acid đậm đặc được tạt thẳng vào gương mặt Cẩm Nhung. Có lẽ đây là vụ tạt acid đầu tiên của Việt Nam. Lãnh trọn ca acid, Cẩm Nhung gục ngay tại chỗ. Từ một mỹ nữ bậc nhất Sài Thành, Cẩm Nhung mang trên mình khuôn mặt của quỷ dữ. Những người đàn ông từng vây quanh cô giờ đây xa lánh, bỏ mặc cô. Cuộc đời Cẩm Nhung xuống dốc không phanh vì ngập ngụa trong thuốc phiện và rượu rồi 9 My nhan 2kết thúc khi cô tiêu tán hết tài sản và phải đi ăn xin sống cho qua ngày.

2/- Một nhân vật khác là bà Hà. Vợ của một trung tá không quân giải ngũ do sức khỏe, bà tìm đến bạn bè của chồng để “giao dịch làm ăn”. Bà đẹp đến độ trong tất cả mệnh phụ phu nhân và cả nhân tình nhân ngãi của giới tướng tá Sài Gòn khi ấy không ai sánh nổi. Vốn là tiểu thư gốc Hà Nội ăn nói duyên dáng thanh lịch cộng thêm nhan sắc đẹp não nùng, chỉ trong thời gian ngắn, chẳng ai không biết đến bà và cũng chẳng ai nhớ đến ông chồng hom hem của bà đang nằm nhà đợi ngày quy tiên.

Những cuộc chiêu đãi của đệ nhất phu nhân Kim Anh – vợ Nguyễn Văn Thiệu và bà đại tướng Trần Thiện Khiêm, lúc nào cũng thấy bà bên cạnh những nhân vật chóp bu của quân đội Sài Gòn. Sau khi trở thành Phó Chủ tịch Hội Bảo trợ gia đình binh sĩ và là “nhân tình nhân bánh” của hơn hai chục tướng lãnh, bà Hà bắt đầu “làm ăn”. Chiêu thức rủ hùn hạp thầu rác Mỹ xem ra hiệu nghiệm. Một ngày nọ, mỹ nhân biến mất không tăm tích sau khi thu hoạch khoảng gần 200 triệu đồng (khi ấy 32.000 đồng/lượng vàng) và một số quý kim, hột xoàn của các bậc mệnh phụ phu nhân đương thời. Điều lạ lùng là ngay cả mạng lưới tình báo của cảnh sát đặc biệt và phủ đặc ủy trung ương tình báo của chế độ cũ cũng bó tay không tìm ra mỹ nhân lừa đảo !

3/- Một mỹ nhân khác nổi danh hơn không phải vì lừa đảo mà vì một mối tình bí mật với “Tông Tông”. Ca sĩ K.L. theo học lò nhạc sĩ Nguyễn Đức từ năm 8-9 tuổi. Lớn lên theo lò Bảo Thu – Duy khánh mới trở thành ca sĩ có danh phận.

9 My nhan 3Cô bắt đầu sự nghiệp ca hát năm 1966 và nhanh chóng được chú ý bởi vẻ đẹp khá Tây. Vẻ đẹp ấy luôn sáng rực khi bước lên sân khấu.

Trong một lần giúp vui cho biệt động quân ở trại Đào Bá Phước theo lời mời của trung tá N., trưởng phòng 3, ca sĩ K.L. hội ngộ với Tông Tông đang đến dự buổi lễ của binh chủng. Cùng với Hùng Cường, cũng là quân nhân biệt phái của binh chủng biệt động quân, ca sĩ K.L. tỏa sáng bởi nhan sắc hơn là giọng ca và lọt vào mắt xanh của vị Tông Tông này.

Sau đó bằng một kênh bí mật, ngài Tông Tông chỉ thị cho tướng Q. và trung tá N. đứng ra mai mối. K.L. trở thành vợ bé của ngài Tông Tông một cách bí mật được khoảng gần một năm. Thời gian này tội nghiệp một cô đào cải lương vì mang trùng tên nên bị… phải đổi nghệ danh khác.

Vợ ngài Tông Tông phát hiện và dọa sẽ cho người “thịt” tình địch, ngài Tông Tông hoảng sợ và bèn sắp xếp cho K.L. sang định cư ở Tây Đức. Sự nghiệp của cô ca sĩ người đẹp này chấm dứt vào năm 1969 !

4/- Một mỹ nhân khác đã từng là người yêu của nhạc sĩ Trần Thiện Thanh : Ca sĩ Minh Hiếu cũng nổi danh vì vừa có tài lẫn nhan sắc mặn mà hiếm có. Khi bước vào sự nghiệp ca hát, Minh Hiếu và ca nhạc sĩ Nhật Trường, tức Trần Thiện Thanh đã “phải lòng nhau”.

9 My nhan 4Một dịp lên Tây Nguyên ca hát phục vụ binh sĩ, Minh Hiếu lọt vào tầm ngắm của Trung tướng Vĩnh Lộc. Cũng cần nói thêm, khi về nắm chức tư lệnh quân đoàn 2, tướng Vĩnh Lộc được nhiều người xem như vua. Khác hẳn những vị tiền nhiệm, vốn xuất thân từ dòng hoàng phái, ngang hàng với Bảo Đại nên Vĩnh Lộc uy quyền tuyệt đối.

Sau một thời gian ‘cưa cẩm’, người đẹp xiêu lòng và trở thành trung tướng phu nhân. Nhiều người cho rằng, cũng vì chuyện này mà Trần Thiện Thanh gởi gắm vào bài “Hoa trinh nữ” với dòng tự sự : “Tôi không phải là vua, nên mộng ước thật bình thường…”.

Lúc bấy giờ tướng Vĩnh Lộc đang giữ chức tư lệnh vùng 2 chiến thuật và trung tá Hai Trề đang làm Tỉnh trưởng Phú Yên (từ 1965- 1967). Một hôm trung tá tỉnh trưởng Hai Trề được lệnh ông tướng vùng phải đem xe ra sân bay đón nàng ca sĩ Minh Hiếu về tư dinh tỉnh trưởng. 9 My nhan 5Nàng ca sĩ này từ Sài Gòn ra. Tỉnh trưởng Hai Trề được lệnh thượng cấp, buộc phải thi hành. Nhưng thay vì đem nàng về tư dinh tỉnh trưởng, để nàng tắm rửa sạch sẽ, nghỉ ngơi lấy sức cho thoải mái, xức dầu thơm “Intimate”, hầu tiếp đón “Anh cả Trường Sơn” cho đúng điệu cải lương, thì Hai Trề lại nổi máu lính “xăng đá”, vứt nàng ca sĩ này ra ngoài khách sạn, ở đường Lê Thánh Tôn, thị xã Tuy Hòa.

Về sau ca sĩ Minh Hiếu, người con gái có khá nhiều giai thoại tình trường, đã khiến Vĩnh Lộc bỏ vợ, và nghiễm nhiên nàng trở thành phu nhân trung tướng Vĩnh Lộc. Vì lý do Hai Trề không chịu đem Minh Hiếu về tư dinh tỉnh trưởng để “Anh cả Trường Sơn” giựt le với người đẹp, nên tướng Vĩnh Lộc sanh tâm thù ghét Hai Trề, kiếm cớ tống khứ Hai Trề ra khỏi lãnh thổ quân khu 2.

Ngước mắt trông lên, bụi phấn hoàng hôn !

Trong mờ nhạt, chứa lẽ gì sâu thẳm ?!

Khách Giang Hồ (tổng hợp)

Bình luận về bài viết này