BÍCH THUẬN – BÍCH SƠN – TÚY PHƯỢNG

TÚY PHƯỢNG (1939 – 11/2001)

TỪ HOA HẬU ĐÔNG PHƯƠNG

ĐẾN NỮ HOÀNG NHẠC TWIST

Nữ nghệ sĩ Túy Phượng, ái nữ của cố nữ kịch sĩ Túy Hoa. Túy Phượng tên thật là Nguyễn Thị Kim Phụng, sinh năm 1939 tại Bạc Liêu. cùng tuổi với các nữ tài tử : Thẩm Thúy Hằng, Kiều Chinh, Kim Vui và nữ nghệ sĩ Bích Sơn.

Túy Phượng là con của Túy Hoa nhưng được Anh Lân hết lòng thương yêu và bồi đắp trên bước đường nghệ thuật trình diễn. Túy Phượng giống mẹ như đúc, nhưng nõn nà và bốc lửa hơn mẹ. Vóc mình cô nhỏ nhắn, cân đối, tay chân xinh xắn. Khuôm mặt cô kết hợp bởi những đường nét cong và mềm và thanh tú. Đó là một vẻ đẹp chanh cốm, mũm mĩm làm say lòng người . Cô đoạt giải Hoa Hậu Đông phương trong đó có Kiều Chinh tham dự.

Tuổi thơ của Túy Phượng thật là gian nan vất vã phải cùng mẹ Túy Hoa bôn ba khắp nơi. Năm 1945, hai mẹ con do tránh chiến tranh và bom đạn đã sang Cam Bốt sinh sống. Bà Túy Hoa đã theo nghề ca hát để nuôi con, bà hát trong ban nhạc Tony Murena ở vũ trường Rex tại Nam Vang. Trong một lần tình cờ khi gánh Mộng Vân sang diễn cải lương tại Nam Vang, nhớ quê hương và được bầu gánh mời ký hợp đồng, Túy Hoa đã bồng con theo gánh về nước.

Vào nghề : Thoại kịch – Ca nhạc & Diễn viên điện ảnh

Về lại Sài Gòn, Túy Phượng được mẹ cho theo học trường nhà trắng Tân Định rồi Chí Thanh học hiệu, Đông Tây học đường…. Có gien ca nhạc trong người, Túy Phượng cũng đam mê nghiệp cầm ca như Mẹ. Năm 15 tuổi, cô chính thức gia nhập làng nghệ sĩ. Với sự dìu dắt của mẹ Túy Hoa và dượng Anh Lân lúc này là bầu gánh Dân Nam.Túy Phượng dần dần khẳng định vị trí của mình tại đoàn nhà.

Ở tuổi 14,15 Tuý Phượng đã được khán giả yêu thích qua những vai nhí nhảnh, hồn nhiên, đến tuổi 16,17, khi nghề nghiệp đã định hình, diễn xuất có chiều sâu, thì Túy Phượng thu hút người xem trong những vai thương cảm. Hồi đó, Tuý Phượng diễn với các NS Kim Cương, Thẩm Thuý Hằng, má Tuý Hoa, ba Anh Lân và các anh Vân Hùng, Ngọc Đức. Đáng nhớ nhất là những vai diễn nội tâm sấu sắc nhất trong vở “Trà Hoa Nữ”, “Người mẹ tội lỗi”, “ Đứa con chị bếp”, “ Ảo ảnh”, “ Yêu trong bóng tối”, “ Nhạc lòng năm cũ”, “ Áo người trinh nữ”.

Trong cuộc bình chọn diễn viên được yêu thích từ một tờ báo của ông Trần Tấn Quốc tổ chức, Tuý Phượng và Vân Hùng đã được khán giả bầu chọn là “đôi diễn viên trẻ tài năng được yêu thích nhất”. Đây là vinh dự lớn trong nghề của Tuý Phượng vì nhà báo Trần Tấn Quốc, người chủ chương bình chọn này rất có uy tính trong báo chí và kịch trường. Ông Trần Tấn Quốc cũng là người sáng lập ra giải Thanh Tâm để chọn ra những huy chương vàng của SKCL, mà mở đầu là NSƯT Thanh Nga.

Sáng chói từ cuộc thi Hoa hậu Đông Phương của hãng phim Đông Phương vào năm 1957, lúc Túy Phượng vừa tròn 17 tuổi. Biệt danh “Hoa hậu Đông Phương” gắn liền với cô từ đó. Có một chuyện vui là vì mọi chi phí, tiền thưởng do hãng xe Lambretta bảo trợ hết, nên chữ Lambretta được vẽ kèm trong tấm banner Thi Hoa Hậu. Kết quả ca sĩ Túy Phượng đoạt chức hoa hậu, và sau đó thiên hạ gọi Túy Phượng là “Hoa Hậu Lambretta,”, ít ai gọi là “Hoa Hậu Đông Phương”.

Điện ảnh đã làm cho cô được chú ý ngay từ giai đoạn này. Trong năm 1958, Túy Phượng tham gia liên tục các phim như Cúc trong “Tình quê ý nhạc” của hãng Mỹ Vân, Công chúa trong ‘Thạch Sanh Lý Thông” của Văn Thế Phim, Thị Lụa trong “Bích Câu Kỳ Ngộ” của hãng Alpha… Tuý Phượng đóng rất nhiều phim, trong đó có phim hợp tác với điện ảnh Philippine như “Ánh sáng đô thành”.

Nữ hoàng nhạc TWIST

Sau này Túy Phượng được nghệ sĩ Bích Thuận nhận làm mẹ đỡ đầu. Cô lại được nữ ca sĩ Mộc Lan luyện giọng. Giọng hát của cô không có gì đặc biệt. Cô lại hát bằng cách phát âm người miền Nam như Túy Hoa, Ngọc Hà. Tuy nhiên đây là một giọng có kỹ thuật cao, ngân nga rất vững. Những bản slow chẳng hạn như bản Sương Thu của Văn Phụng được cô diễn tả rất nghề, làm thỏa mãn khách sành điệu. Ở bản Mộng Đẹp Ngày Xanh của Hoàng Trọng, dù gặp chỗ lên cao vượt ngoài âm vực của giọng hát cô, vậy mà cô hát vẫn không gãy, vẫn ngọt ngào làm cho nhiều người thán phục.

Cũng như giọng Mai Hương, Hồng Phúc, giọng Túy Phượng không thích hợp với sân khấu mà chỉ thích hợp trên làn sóng điện mà thôi. Nhưng khi cô xuất hiện trên sân khấu, chính thân hình nhỏ nhắn và bốc lửa của cô cùng khuôn mặt mũm mĩm của cô chài bẫy khán thính giả nhiều hơn là giọng hát.

Năm 1959, Sài Gòn xuất hiện phòng trà Hòa Bình. Túy Phượng mặc chiếc robe bằng nhung đen xẻ đùi và hở ngực hở vai khá rộng. Cô mang găng tay bằng nhung đen dài đến khuỷu tay, đeo những món nữ trang lấp lánh và cài vương miện trên tóc. Cô hát bài “Mambo Italiano” rất bừng bừng phấn khởi, như rải cơn bão lửa khắp phòng trà Hoà Bình.

Về sau, khoảng 1961-63, Túy Phượng xoay qua hát nhạc Twist và trở thành “Nữ Hoàng Nhạc Twist”. Nhưng cô chỉ nổi tiếng trong một thời gian ngắn ở lãnh vực mới này. Rất tiếc, Túy Phượng có biệt tài trình diễn nhạc hay, nhưng khán thính giả chỉ say mê cô qua sắc đẹp chói chang, qua những điệu hát rậm rật mà không tìm được cái nội lực chân truyền cùng kỹ thuật thâm hậu trong giọng hát của cô. Cho nên cô phải dùng nhạc Twist để làm quỷ làm yêu, trổ nhiều quái chiêu để thu phục nhiều khán giả.

Túy Phượng đóng kịch rất hay. Sau khi Kim Cương, Vân Hùng và Túy Hồng tách rời khỏi ban Dân Nam thì cô thay thế Kim Cương thủ những vai thương cảm nòng cốt của vỡ kịch. Tùng Lâm, Túy Phượng và Tùng Giang hợp với nhau thành một ban hợp ca (nằm trong đoàn Dân Nam) lấy tên là “ban tam ca Muôn Phương”, ăn mặc theo kiểu Nam Mỹ và hát nhạc châu Mỹ La Tinh được dịch lời Việt. Nghệ sĩ Tùng Lâm chơi guitar, Tùng Giang chơi congo, còn Túy Phượng lắc tamburan.

Sau năm 1975, Tuý Phượng vẫn tiếp tục con đường nghệ thuật trên sân khấu kịch “Tân Dân Nam”, Tuý Phượng còn là ca sĩ, một thời nổi tiếng “Nữ hoàng Twist”, nên thời điểm miền Nam giải phóng giọng ca của chị nổi bật trong các đoàn “Ca múa nhạc Hậu Giang”, “Tiếng Ca Minh Hải” lưu diễn khắp miền đất nước. Tuý Phượng cũng là 1 giọng ca trình diễn ở sân khấu nhà hát Hoà Bình ở Sài Gòn sớm nhất, cùng với Cẩm Vân, Thu Cúc, Bảo Yến, Nhã Phương, Thanh Hoa, Hồng Hạnh.

Nụ cười của Tuý Phượng vẫn tròn đầy, từ nằm 1995, sau những ngày đau buồn chịu tang mẹ là NS Tuý Hoa, người ta không thấy NS Tuý Phượng lưu diễn nữa. Chị vẫn hoạt động nhưng là nhận những vở diễn trong các vở kịch video. Trong lỉnh vực hài, Tuý Phượng thừa hưởng cái “gien” của mẹ, nên cũng rất duyên dáng đem đến khán giả những trận cười thoải mái.

Tuý Phượng từng được yêu thích qua băng hài “Đắc Kỷ ho gà”, “Hai Nhái khoái vợ bé”, “Con Tấm – Con Cám” gợi nhớ một thời chị diễn hài kịch cùng mẹ là Tuý Hoa và những “Cây Cười” Thanh Việt, Phi Thoàn, Tùng Lâm, Thanh Hoài, Hoàng Mai, Khả Năng, Bé “Bự” trên nhiều sân khấu.

Túy Phượng qua đời tại Sàigòn, ngày 13-11-2001. Đám tang của nữ nghệ sĩ Túy Phượng, chồng đứng ra tổ chức và hỏa thiêu ở Bình Hưng Hòa.

Lê Minh

NỮ NGHỆ SĨ BÍCH THUẬN

Trong giới cải lương thường gọi nữ nghệ sĩ Bích Thuận là “Má Bích,” bà đi vào nghệ thuật bằng con đường rất dài, đã có một quá khứ vàng son ở sau lưng, và hầu như khán giả cải lương ít khi nghĩ rằng Bích Thuận xuất thân từ đất Bắc.

Thật thế, Má Bích vào nghề nổi danh ở đất Thăng Long, rồi đến đầu thập niên 1950 bà và đào Kim Chung vào Nam đi hát, sau đó Kim Chung về Bắc, còn nghệ sĩ Bích Thuận ở lại tiếp tục cộng tác với các đoàn hát ở Sài Gòn. Do vậy mà năm 1954 có phong trào di cư, trong khi Kim Chung cùng đoàn “Tiếng Chuông Vàng Bắc Việt” thu dọn khăn gói di cư vào Nam, thì Bích Thuận đã có mặt ở Sài Gòn đã từ lâu rồi và đang hát cho gánh Phụng Hảo.

Lúc gánh Kim Chung đóng trụ ở rạp Aristo Sài Gòn, người ta tưởng đâu Bích Thuận sẽ về hát cho Kim Chung sẽ thích hợp hơn, bởi khán giả người di cư từng biết qua thành tích nghệ thuật của bà. Nhưng không, Bích Thuận vẫn cộng các với các gánh cải lương miền Nam, với đài phát thanh và lập đoàn hát riêng cho người cháu Bích Sơn vừa mới lớn lên vào nghề có đất dụng võ. (Nhờ đi theo Má Bích nên kiều nữ Bích Sơn và Bích Thủy cũng có mặt ở miền Nam trước 1954.)

Sau năm Mậu Thân 1968, trong lúc cải lương kiệt quệ, thì bên phía điện ảnh lên như diều, đào kép cải lương một số nhảy sang đóng phim và nữ nghệ sĩ Bích Thuận cũng được mời. Năm 1971 bà góp mặt trong hai cuốn phim “Mãnh Lực Ðồng Tiền” và “Sám Hối.” Cả hai vai đều là gái già hồi xuân, rất lẳng, rất nồng nhiệt, Bích Thuận đã làm sống động vai trò của mình.

Lúc bấy giờ người ta thấy Má Bích sửa sắc đẹp, trông lộng lẫy hẳn ra, lắm lúc nhìn còn… măng tơ hơn cả hai cô cháu Bích Sơn, Bích Thủy mới ngộ chớ… Ðồng thời với nét đẹp… hồi xuân, má Bích Thuận còn lãnh đóng nhiều vai gợi tình, hấp dẫn với những cái hôn nẩy lửa và những kiểu y phục hớ hênh thấy phát lạnh. Hiện nay Bích Thuận đã hơn 80 niên kỷ và đang định cư ở miền Bắc California.

Có một năm, nữ nghệ sĩ Bích Thuận có ghé Houston, tiểu bang Texas để cho ra mắt tập hồi ký do bà viết : “Từ Vân Hò đến UNESCO” ghi lại cuộc đời trình diễn thăng trầm của người nghệ sĩ tài ba trải dài suốt bốn thập niên 1940 – 1970.

Bích Thuận sinh trưởng tại Bắc Ninh,quê huơng của những điệu hát quan họ. Vào nghề thật sớm, lúc 10 tuổi,Bích Thuần cùng với nguời em gái là Tường Vi gia nhập gánh đồng ấu Nhật Tân Ban. Sau,hai chị em cộng tác với đoàn Tố Như lúc đó đang làm mưa làm gió khắp Nam Bắc với Kim Chung, Khánh Hợi là đào chánh. Tại đây, mãi về sau nhờ sự giúp đỡ của soạn giả Phạm Ngọc Khôi, Bích Thuận mới được đóng vai Thúc Sinh trong Kim Vân Kiều mà Kim Chung là Kiều Nương. Từ vai diễn nảy Bích Thuận luôn luôn đóng kép cặp với Kim Chung.

Khi đoàn Tố Như vào Nam lưu diễn trở về Bắc đem theo Túy Hoa thì Bích Thuận đã ở lại Sài Gòn luôn và lập gánh hát mang tên bà : đoàn Bích Thuận năm 1948. Một thời gian mỏi mệt trong việc điều hành đoàn hát, bà sang Pháp nghỉ ngơi. Đến năm 1951, Bích Thuận cộng tác với gánh Phụng Hảo của cô Bảy Phùng Há rồi sang gánh Nam Phỉ, Kim Chung và đoàn Thăng Long Huỳnh Thái của nam danh tài Huỳnh Thài cùng với hai người cháu là Bích Sơn (huy chương vàng giải triển vọng Thanh Tâm năm 1960 và Bích Thủy (tốt nghiệp thủ khoa trường Quóc Gia Âm Nhạc và Kịch Nghệ).

Những vai thành công trên sân Khấu của Bích Thuận rất nhiều :

– Vai Mạc trong ” Gánh Hàng Hoa “, An Lộc Sơn trong vở ” Truồng Hận “, Tiểu Tướng Phùng Mậu trong “Phùng Mậu Hạ San”, vai Thúy Liễu trong ” Hoa Rơi Cửa Phật”, Túy Nguyệt trong “Hai bóng Hoa Rừng”, Liên Hoa Hoàng Hậu trong vở “Phấn Hậu Cung”, Tuyên Phi Đặng thị Huệ trong vở “Bội Lan Hương” phỏng theo ” Bà Chúa Chè” của nhà văn Phan Trần Chúc, cô Chúc trong vở “Vụ Án Giết Chồng” đóng chung với Phong Trần Tiến, Trần Khắc Chung trong “Sương Gió Chiêm Thành” của Vạn Lý & Viễn Châu, vai tiểu thư trong “Trăng Nhớ Bến Tầm Dương” đóng chung với Huỳnh Thái, Ngọc Toàn, Ba Hội, Bích Sơn, Bích THủy, bé Kim Hương…

Trong thập niên 40,Bích Thuận là nghệ sĩ gốc Bắc duy nhất có đông đảo khán giả trong Nam. Mãi đến những năm cuối 50, Bích Hợp mới thay Bích Thuận giữ ngôi vị độc tôn trong lòng khán giả mộ điệu miền Nam.
Bích Thuận có thu nhiều dĩa tân nhạc như “Ai Về Sông Tương”, “Trách Người Ra Đi”. Phải nói là giọng ca tân nhạc của Bích Thuận rất hay. Ngoài ra Bích Thuận cũng có tham gia điện ảnh với các bộ phim : Mãnh Lực Đồng Tiền, Sám Hối, Sau Giờ Giới Nghiêm.

Trước năm 1975, nghệ sĩ Bích Thuận là giáo sư Trường Quốc Gia Âm Nhạc Và Kịch Nghệ tại Sài Gòn. Bà là một nghệ sĩ đa tài trong các bộ môn, từ hát cải lương, ngâm thơ, kịch đến điện ảnh. Bà được tổ chức UNESCO thuộc Liên Hiệp Quốc tuyên dương vì đã hoạt động cho Văn Hóa Việt Nam suốt 50 năm.

KIỀU NỮ BÍCH SƠN

Bích Sơn là cháu của nghệ sĩ tài danh Bích Thuận ở đoàn hát Kim Chung. Có năng khiếu nghệ thuật từ nhỏ, lại được dì dẫn đắt, nên khoảng năm 1955-1956, Bích Sơn đã có những vai diễn sinh động trên sấn khấu Kim Chung.

Nét đẹp cô gái miền Bắc của Bích Sơn người ta nhớ nhất là mái tóc dài như suối phủ bờ vai, cặp mắt mơ mộng với nụ cười ẩn chứa nổi buồn man mác trên đầy đặn, bầu bỉnh như búp bê. Giọng ca Bích Sơn truyền cảm, và đặc biệt là cô ngâm thơ rất hay. Qua những bài thơ trữ tình như : “Hoa trắng thôi cài trên áo tím” của Kiên Giang, giọng ngâm của Bích Sơn thật cuốn hút, chất chứa những rung cảm. Bởi vậy, nét đẹp của Bích Sơn nổi danh “Kiều nữ”, còn giọng ca ngâm của cô hấp dẫn bao khán giả đương thời.

Sau những vai mở đầu nghiệp diễn ở đoàn hát Kim Chung, Bích Sơn nổi bật trên sân khấu đoàn cải lương Thuý Nga trong vở “Khi hoa anh đào nở” của đôi tác giả Hà Triều – Hoa Phượng, qua vai cô gái Nhật. Vẽ đẹp của Bích Sơn thích hợp với một mỹ nhân Phù Tang, giọng hát trầm bổng nhịp nhàng với tiếng đàn samisen thấm vào lòng khán giả.

Vở  tuồng “Khi hoa anh đào nở” đã thắp sáng tên tuổi của Bích Sơn. Tiếp đến là giải Thanh Tâm năm 1960 trao cho Bích Sơn chính là bệ phóng đưa cô lên tâm cao nghệ thuật.

Sau sân khấu đoàn Thuý Nga, kiều nữ Bích Sơn qua những đoàn khác : Trăng mùa thu, rồi Thanh Minh – Thanh Nga. Cô có nhiều vai diễn ấn tượng trong vở “Tâm tình cô gái thượng”, “Tóc em chưa úa trăng thề”, “Mối duyên thiên lý”, “Hoa mùa gió loạn”,… Kiều nữ Bích Sơn còn là một diễn viên diện ảnh nổi tiếng, vai diễn người mẹ của cô trong phim “Bụi Đời” của đạo diễn Lê Mộng Hoàng là một dấu ấn đẹp trong điện ảnh.

Sau ngày đất nước chuyển đổi đời, Bích Sơn hát ở đoàn Thanh Minh với những vai sắc nét : Nữ Tướng Thánh Thiên trong “Tiếng trống Mê Linh”, Cố Mẫu “Thái Hậu Dương Vân Nga”, Nhũ Mẫu trong “Truyền tuyết về tình yêu”,… Tuổi đã cao, nghề đang đi vào xế chiều, Cô đã rời cánh màn nhung để ra nước ngoài đoàn tự gia đình, nhưng khán giả vẫn còn nhớ hình ảnh một Kiều nữ ngày nào trên sân khấu cải lương với giọng ca trầm và đôi mắt đẹp buồn diệu vợi.

Bạch Vương


Bình luận về bài viết này