NHÌN LẠI TỔ NGHIỆP CẢI LƯƠNG

Logo Van nghe

Tr cai luongÔNG T CẢI LƯƠNG LÀ AI ?

– Trúc Giang MN

Ông tổ cải lương là Tống Hữu Định

Theo GS Trần Quang Hải, con của GS Trần Văn Khê, thì ông tổ cải lương tên là Tống Hữu Định. Bút hiệu là Tịnh Trai. Được gọi là “Thầy Phó Mười Hai”. “Thầy Phó” là vì ông giữ chức Phó Tổng vùng đất Vãng (Sau đổi thành tỉnh Vĩnh Long). “Mười Hai” là người con thứ 12 trong gia đình. Tống Hữu Định sinh năm 1896 tại làng Long Châu (Vĩnh Long). Mất năm 1932. là con của vị quan khai quốc công thần Nhà Nguyễn, Tống Phước Hiệp. Ông Định nổi tiếng là hào hoa phong nhã, ăn chơi đứng đầu tỉnh Vĩnh Long. Thời gian 1915-1920, ông thường tổ chức tiệc tùng, cờ bạc, đá gà nòi, ca hát, ngâm thơ, kết bạn rộng rãi.

9 Cai luong 1Một hôm, ông đến Mỹ Tho, ngủ qua đêm để sáng hôm sau đi xe lửa lên Sài Gòn. Ở Mỹ Tho, ông xem hát bóng (Cinéma) bắt đầu bằng màn phụ diễn đờn ca múa hát Việt Nam. Ông ghi nhận. Một lần khác ở Sài Gòn, ông thấy một giàn đờn tài tử. Ông để bụng.

Khi về nhà, ông Định bày ra đờn ca trên bộ ván ngựa. Vừa ca vừa ra bộ. Khoảng đầu năm 1916, trong một buổi hòa nhạc tại nhà ông, bài ca “Tứ Đại Oán” về một cảnh trong Lục Vân Tiên là “Bùi Kiệm thi rớt trở về nhà”. Vừa ca vừa ra bộ. Ba người trong vai là: Bùi Ông do thầy Du đóng vai. Thầy Diệp Minh Ký thủ vai Bùi Kiệm. Cô Ba Định giữ vai Kiều Nguyệt Nga. “Thầy” là thầy chú, chỉ người sang trọng hoặc được kính nể. Ngày thứ bảy hàng tuần đều có tổ chức tiệc tùng, ca nhạc với ba tài tử nói trên có sự tham dự của bạn bè khắp nơi. Phong trào “vừa hát vừa ra bộ” phát triển mạnh ở Miền Tây Nam Bộ.

Ngày 15/11/1918, tuồng Cải Lương được diễn lần đầu tiên tại nhà Thầy Phó Mười Hai. Sau đó diễn ra ở Sa Đéc và Vũng Liêm. Tóm lại, cải lương bắt nguồn từ dòng nhạc “Đờn ca tài tử” mục đích để tiêu khiển, thường được tổ chức phục vụ cho những buổi lễ như : lễ giỗ, lễ cưới, bữa tiệc, tại tư gia.

Cho nên Ông tổ của nghệ thuật cải lương là Tống Hữu Định ở Vĩnh Long.

Vì sao gọi là “cải lương” ? Theo GS Trần Văn Khê: “Cải lương có nghĩa là cải cách, sửa đổi cho tốt hơn”. Đó là sửa đổi hát bội. Sau khi được sửa đổi, cải lương hoàn toàn khác hẳn với hát bội từ hình thức tới nội dung.

Ngày Giỗ Tổ của cải lương : Ngày 12 tháng 8 âm lịch hàng năm được chọn là “Ngày Sân Khấu Việt Nam”, cũng chính là 9 Cai luong 2“Ngày Giỗ Tổ” được ngành sân khấu tổ chức rất long trọng.

Mặt trái của sân khấu cải lương

1). Hát cải lương và hút á phiện : Hồi thập niên 1930, thời Pháp thuộc, tệ đoan xã hội lan tràn, sân khấu cải lương cũng không ngoại lệ. Trên sân khấu, khán giả chỉ thấy những cái đẹp, cái hay và nghệ thuật, nhưng sau bức màn nhung thì không có gì tốt đẹp cả. Không phải chỉ riêng một vài gánh hát, mà hầu như đó là tình trạng chung của những đoàn cải lương.

Phía sau cánh gà, sát bên vách là mâm đèn hút á phiện. Lúc nào cũng có vài người nằm lim dim đi mây về gió. Giới nghệ sĩ cải lương nhiều người bị ghiền á phiện là do đó. Có nhiều anh kép, vừa hát xong vai tuồng thì nhảy vào kéo ro ro. Mấy ông thầy đờn cũng vậy, màn vừa bỏ xuống để thay cảnh, là buông đờn chạy vào phi một cặp rồi trở ra đờn tiếp. Mấy bữa hút nhiều quá, mùi khói khét lẹt bay ra ngoài, khán giả chịu không nổi, người ta phải quạt cho khói bay ra phía sau sân khấu.

2). Cờ bạc : Cờ bạc, á phiện là do các chủ rạp tổ chức. Hút bao nhiêu cũng được miễn là trả đủ tiền cho họ thôi. 9 Cai luong 4Chủ rạp tổ chức cờ bạc để lấy xâu. Chủ rạp nào cũng vậy, mình không mướn thì thôi, bởi vì rạp thì ít mà gánh hát thì nhiều. Hát ở trên, đánh bài ở dưới. Đào kép lãnh lương xong thì họ ngồi sẵn ở đó, thu tiền liền. Chạy đâu cho khỏi.

Thời đó, sân khấu nào cũng vậy. Ở trên treo màn, treo cảnh, còn ở dưới là một khoảng trống lót gạch tàu, làm chỗ ăn chỗ ở cho đào kép. Sòng bài cũng ở đó. Chửi thề, nói tục không ngớt. Một số ít đào kép chánh, tiền nhiều thì họ ở khách sạn hay thuê nhà bên ngoài.

Đào kép nào tới vai thì lên hát, mà chưa tới, thì xáp lại đặt vài tụ. Để nguyên râu ria áo mão dài thường thượt ngồi vào chia bài. Quan Công, Lưu Bị cũng kéo dà dách (còn gọi là xì dách, xì lát). Tiết Nhơn Quý và Tiết Đinh San cũng sát phạt nhau, ăn thua đủ bất kể cha con gì cả. Cãi vã rùm beng. Chửi thề không ngớt.

Một hôm, gánh Năm Châu hát tuồng Lan và Điệp. Vừa hết cảnh Lan cắt đứt dây chuông rồi ngất xỉu. Điệp đau khổ. Người coi hát cảm thương vậy mà màn vừa bỏ xuống để thay cảnh thì cả Lan và Điệp chạy xuống sòng bài kéo dà dách hai lá. Lúc ông hòa thượng đang ca vọng cổ trên sân khấu thì Điệp kéo bài ăn gian sao đó,9 Cai luong 1 sẵn cái dĩa để kéo bài, Lan đập cho Điệp xụi tay.

Chừng ra sân khấu trở lại, theo bài bản, ông hòa thượng đưa áo cà sa cho Điệp mặc vào, nhưng Điệp đưa tay lên không được, hòa thượng phải giúp một tay. Rồi lúc Lan sắp chết, Điệp phải cổi áo cà sa ra thật mau để chạy đến ôm Lan vào lòng, nhưng vì tay bị xụi phải làm bộ xiểng niểng vì quá đau khổ, lùi ra sau cánh gà để nhờ chú tiểu Huệ Thông kéo ra giùm.

Khán giả cho rằng có lẻ kép nầy say rượu nên quên bài bản, hát quờ quạng chớ đâu có biết Lan đập cho Điệp vì kéo bài ăn gian. Vì thế, nên đa số đào kép lúc nào cũng mắc nợ. Hát bữa nào xào bữa nấy. Cũng vì lý do đó mà cô Bảy Phùng Há không cho con gái đến rạp hát.

ÔNG TỔ BẢN VỌNG CỔ LÀ CAO VĂN LẦU

Bản “Dạ Cổ Hoài Lang”

Bản Dạ Cổ Hoài Lang của ông Cao Văn Lầu được coi là nguồn gốc khai sanh ra những bản vọng cổ hiện nay của ngành cải lương. Dạ Cổ Hoài Lang có nghĩa là “Đêm khuya nghe tiếng trống nhớ chồng”.

1). Nguyên nhân ra đời : Ông Cao Văn Lầu thổ lộ với bạn: “Tôi đặt ra bản nầy bởi vì tôi rất thương vợ là Nguyễn Thị Tấn. Tôi đã ở với vợ suốt ba năm mà không có con. Theo tục lệ xưa “Tam niên vô tự bất thành thê”. Gia đình buộc tôi phải thôi vợ. Trả vợ về cha mẹ ruột, 9 Cai luong 5nhưng tôi không đành. Tôi âm thầm chống lại nghiêm lịnh của gia đình, đem vợ gởi cho một gia đình bên vợ. Trong một thời gian dài phu thê phải chịu cảnh “Đêm đông gối chiếc cô phòng”.

Ông Sáu Lầu mượn tiếng đàn để vơi cơn phiền muộn. Và bản Dạ Cổ Hoài Lang ra đời trong bối cảnh đó. Ông thường xuyên bí mật gặp gỡ vợ, và sau đó bà vợ có thai và hai người sống chính thức với nhau có 7 người con (5 trai, 2 gái)

2). Bản Dạ Cổ Hoài Lang : Bản Dạ Cổ Hoài Lang có 20 câu, mỗi câu trong bài có hai nhịp, gọi là nhịp đôi. Do nhu cầu phát triển, bản vọng cổ có từ 8 nhịp, 16 nhịp và hiện nay là 32 nhịp trong 6 câu. Thành ngữ “Rành sáu câu” bắt nguồn từ vọng cổ.

Nốt nhạc là: hò (la), xự (si), xang (re) xê (mi) cống (fa). Sau khi nói lối rồi xuống chữ “Xề” để bắt đầu ca vọng cổ. Khán giả thường vổ tay khen điệu mùi của chữ xề.

Soạn giả Viễn Châu là ông vua đặt bản vọng cổ. Út Trà Ôn được cho là ông vua ca vọng cổ.

Ông Cao Văn Lầu

Ông Cao Văn Lầu, thường gọi là Sáu Lầu (22-12-1892 – 13-8-1976), là tác giả bản Dạ Cổ Hoài Lang.  Gia đình gốc ở Long An, vì nghèo và bị áp bức nên xuống Bạc Liêu sinh sống. Năm 1908, ông Sáu Lầu mỗi đêm đến học đờn tại nhà thầy Hai Khỵ (Lê Tài Khí). Do yêu thích và siêng học, Cao Văn Lầu thành thạo các loại đờn : đờn kìm, đờn cò, đàn tranh, trống lễ, và trở thành nhạc sĩ nồng cốt trong ban cổ nhạc của thầy Tran Tan Quoc 2Hai Khỵ.

Năm 1912, Sáu Lầu bắt đầu đi hát với Sáu Thìn và cô Phấn với bài Tứ Đại Oán trong vở Bùi Kiệm Thi Rớt Trở Về Nhà.

Giải Thanh Tâm

1). Giải Thanh Tâm : Năm 1960, Ký giả Trần Tấn Quốc, người sáng lập Giải Thanh Tâm, thưởng huy chương vàng cho diễn viên cải lương xuất sắc trong năm. Ông là chủ nhiệm kiêm chủ bút nhật báo Tiếng Dội Miền Nam, tổ chức một cuộc trưng cầu ý kiến độc giả, bỏ phiếu bình chọn những diễn viên xuất sắc nhất của sân khấu cải lương.

Kết quả được công bố như sau :

1/- Đệ nhất danh ca vọng cổ: Út Trà Ôn.

2/- Đệ nhất nữ danh ca vọng cổ: Thanh Hương.

3/- Đệ nhất kép độc, lẳng: Hoàng Giang.

4/- Đệ nhất đào độc nữ: Như Ngọc.

9 Cai luong 62). Những biệt danh của đào kép cải lương : Vua vọng cổ: Út Trà Ôn. Nữ vương sầu mộng: Út Bạch Lan. Giọng ca vàng: Hữu Phước. Vua không ngai: Thành Được. Hoàng đế dĩa nhựa: Tấn Tài. Vua vọng cổ hài: Văn Hường. Nữ hoàng sân khấu: Thanh Nga. Giọng hát liêu trai: Mỹ Châu.Tiếng hát nhung lụa: Ngọc Giàu.

KÉP ĐC HOÀNG GIANG

Soạn giả Nguyễn Phương thuật lại câu chuyện về Hoàng Giang như sau. Trong vở Tôn Tẫn-Bàng Quyên, hai nhân vật đều là đệ tử của Quỷ Cốc Tử. Bàng Quyên độc ác, nham hiểm tìm cách hại Tôn Tẫn để đoạt binh thơ.

9 Cai luong 7Lần đó, Hoàng Giang thua bài cháy túi mà còn mắc nợ mấy ngàn đồng. Khi lên sân khấu, Hoàng Giang như kẻ mất hồn, hát xụi lơ như để trả nợ quỷ thần.

Ông bầu Trương Gia Kỳ Sanh của gánh Tiến Hóa đứng sau cánh gà thấy ngứa mắt, hò hét biểu hát cho xôm lên, cho nóng lên. Ông nói: “Bộ thằng Út nó là cha mầy sao mầy không dám đánh nó một bạt tai. Dù nó là tía ruột của mầy, mầy cũng phải đánh. Đánh đi! Đánh thật mạnh cho tao coi”.

Nghe ông bầu chửi, Hoàng Giang nổi sùng, khi nghe Mười Út hét lớn:”Dầu có giết ta, 9 Hoang Giangta cũng không chép binh thơ cho ngươi đâu!”. “Như vậy nhà ngươi phải chết! Phải chết!”. Nói xong Hoàng Giang xáng cho Út Trà Ôn một bạt tai nháng lửa. Mười Út xiểng niểng, ôm mặt chạy ra xa rồi xuống vọng cổ chữ “xề” mùi quá, khán giả vỗ tay như bể rạp.

Ông bầu khen Hoàng Giang: “Hôm nay mầy hát hây lắm”. Út Trà Ôn ôm mặt còn in dấu bàn tay đến xin xé contrat để đi gánh khác. Ông bầu và Hoàng Giang xin lỗi. Hoàng Giang phải quỳ trước bàn thờ tổ, hứa và cam kết không đánh bài nữa.

VAI H TRONG GÁNH CẢI LƯƠNG

Hề Văn Hường

Nội dung vở cải lương nào cũng  mang đầy đủ tính hỷ, nộ, ái, ố để thỏa mãn sở thích của khán giả. 9 Cai luong 3Vai chọc cười khán giả là một trong những vai quan trọng của gánh hát. Gánh nào cũng có đào, kép thủ vai hề cả. Chọc cười thiên hạ không phải là chuyện dễ. Những kép hề trên sân khấu nổi tiếng như Văn Hường, Văn Chung, Kim Quang, Thanh Việt, Thanh Hoài, Tùng Lâm, Xuân Phát, Khả Năng, Phi Thoàn… Nổi bật nhất là hề Văn Hường.

Văn Hường sinh tại xã Long Thạnh Mỹ, quận Thủ Đức được mệnh danh là vua vọng cổ hài vì có lối hát đặc biệt khác người, khó bắt chước được.

Soạn giả Viễn Châu đã viết 100 bản ca riêng cho Văn Hường hát. Các soạn giả Yên Ba, Quy Sắc cũng góp vào gần 100 bài nữa.

Hề râu Thanh Việt

Thanh Việt để hàm râu dê dưới càm nên được gọi là hề râu Thanh Việt. Năm 14 tuổi,9 Cai luong 8 Thanh Việt theo cha dượng là kép Tám Huê theo những gánh nhỏ hát dưới tỉnh. Thanh Việt đóng những vai quân hầu, lính chạy cờ hiệu, đầy tớ theo hầu, nịnh bợ ông chủ…

Vì hát cương nên thầy tuồng nhắc đến đâu thì hát đến đó. Vì không thuộc bài bản nên hát như người cà lăm, thế mà khán giả ở tỉnh lại thích anh hề bất đắc dĩ nầy.

Thanh Việt thành công trong một số vở tuồng, nhưng vì bị Việt Cộng chọi lựu đạn khi hát ở Miễu Quốc Công, tỉnh Vĩnh Long, nên gánh hát tan rả. Đào kép tứ tán.

Năm 1960, tại Đại Nhạc Hội Cù Léc, Tùng Lâm, Xuân Phát, Phi Thoàn, Khả Năng, Thanh Hoài, Thanh Việt được mệnh danh là Lục Hài Tướng.

Một hôm, bà Bầu Thơ của đoàn Thanh Minh-Thanh Nga nhờ Thanh Việt hát thế vai của hề Kim Quang, bị té xe Honda nằm nhà thương Chợ Rẫy. Sau đó, Thanh Việt được ký hợp đồng hát cho đoàn Thanh Minh – Thanh Nga, chính thức gia nhập ngành cải lương.

QK Tung Lam 2Ngoài cải lương còn tham gia đóng phim với tiền lương cao nhất. Thanh Việt mua nhà ở Phú Nhuận, mua xe hơi mới. Đời sống huy hoàng.

Sau năm Mậu Thân 1968, các nghệ sĩ gia nhập quân đội như : Thành Được, Hùng Cường, Thanh Tú, Diệp Lang, Thanh Việt, Khả Năng, Phi Thoàn…

Sau năm 1975, Khả Năng bị tù 6 năm. Phi Thoàn lách vào ban văn nghệ của Bến xe Xa cảng Miền Tây, và những người khác núp bóng trong các đoàn văn công của nhà nước ở Hậu Giang. Thanh Việt hát cho đoàn văn công Huyện Cầu Ngang. Lãnh 10 đồng mỗi suất hát. Không đủ tiền nuôi vợ con.

Vợ anh dẫn con đi vượt biên. Chết ngoài khơi. Ban ngày anh chọc cho thiên hạ cười, tối về nhớ vợ nhớ con, nhớ hoàn cảnh bi đát của mình nên khóc thầm thâu đêm.

SỰ HỦY DIỆT MÔN CẢI LƯƠNG

Nền nghệ thuật sân khấu cải lương hiện nay đang ngất ngư, dở sống dở chết bởi những lý do như sau. 9 SG Vien Chau 4Trước hết, phim bộ Hồng Kông, Hàn Quốc và cả Việt Nam, đã góp phần tạo ra sự rơi rụng khán giả của cải lương. Kế đến, việc quốc doanh các đoàn cải lương đã góp phần đưa bộ môn nghệ thuật nầy trên đà xuống dốc, đến tự hủy diệt.

Đào kép cải lương trở thành công chức biên chế nhà nước được hưởng lương như công chức, cán bộ. Trước kia đào kép chánh ký hợp đồng tiền lương cao, ngày nay đào kép xuất sắc được phong tặng Nghệ sĩ Ưu Tú, Nghệ sĩ Nhân dân. Xuất sắc hơn nữa thì được kết nạp vào Đảng.

Về nhạc vọng cổ.

Những soạn giả nổi tiếng trước 1975 như Viễn Châu, Nguyễn Phương, Hà Triều, Hoa Phượng, Hoàng Khâm, Quy Sắc… không có người thừa kế. 9 SG Vien Chau 2Tài năng của soạn giả là đặt ra những bản vọng cổ cho các vai trong vở tuồng hát. Như vậy, mỗi vở có hơn một chục bản vọng cổ.

Thế hệ trẻ ngày nay rất ít có người sáng tác vọng cổ và cũng ít có người biết thưởng thức vọng cổ. Những nghệ sĩ cải lương nổi tiếng một thời, nay đã lùi vể quá khứ. Trở thành một kỷ niệm. Vang bóng một thời.

Vài thế hệ sau, những nghệ sĩ sân khấu cải lương, vang bóng một thời, sẽ trở nên hoàn toàn xa lạ mỗi khi được nhắc đến. (theo Trúc Giang – Minnesota ngày 21-6-2016)

Yên Huỳnh chuyển tiếp

Logo van de

9 Thieu lam 1VÕ SƯ THIẾU LÂM DẠY VÕ

CHO CÁC CÔ GÁI HỞ HANG

Hình ảnh những cô gái mặc trang phục khá… gợi cảm, luyện tập võ thuật với các võ sư đến từ ngôi chùa cổ nổi tiếng của Trung Quốc đã khiến truyền thông và dư luận nước này không khỏi xôn xao. Võ sư Thiếu Lâm Tự dạy võ cho các cô gái mặc… bikini

Một điểm đến du lịch sông nước nằm ở tỉnh Quảng Đông, Trung Quốc đã vừa thành lập một đội những nữ “nhân viên cứu hộ” xinh đẹp và gợi cảm, để bao đảm sẵn sàng ung phó mọi bất trắc xảy ra đối với sự an toàn của du khách.

Để trở thành một thành viên trong biệt đội “Nữ thần cứu hộ” làm việc trong khu du lịch sông nước Cổ Long Hiệp nằm ở miền Nam Trung Quốc, các nữ nhân viên nay phải mặc trang phục đồ bơi (trang phục thường ngày khi làm việc của họ) và sẵn sàng “đương đầu” với các võ sư đến từ… Thiếu Lâm Tự. Nếu vượt qua bài kiểm tra này, họ mới được thuê vào làm việc.

Những bức ảnh xuất hiện trên mạng xã hội Trung Quốc cho thấy một đội gồm những cô gái muốn được tham gia vào nhóm “Nữ thần cứu hộ” đang luyện tập những kỹ năng võ thuật cùng nhiều bài tập thể lực khác với các võ sư đến từ Thiếu Lâm Tự.

Hình ảnh những cô gái mặc trang phục khá… gợi cảm, luyện tập với các võ sư đến từ ngôi chùa cổ nổi tiếng của Trung Quốc đã khiến truyền thông và dư luận nước này 9 Thieu lam 2không khỏi xôn xao.

H1: Một cô gái đang luyện tập võ công với một võ sư Thiếu Lâm trước khi trải qua bài thi sát hạch để xem có đủ điều kiện trở thành “Nữ thần cứu hộ” hay không.

H2: Hơn 30 cô gái đã tham gia vào khóa huấn luyện của khu du lịch Cổ Long Hiệp nằm ở miền Nam Trung Quốc. Hình ảnh những cô gái trong trang phục gợi cảm luyện tập võ thuật trên dòng suối với các võ sư Thiếu Lâm đã gây xôn xao dư luận Trung Quốc.

H3: Các cô gái này sẽ phải luyện tập võ thuật và những bài tập thể lực dưới sự hướng dẫn của các võ sư. H4: Các cô gái này mặc trang phục đồ bơi trong lúc luyện tập bởi đây cũng chính là trang phục thường ngày trong giờ làm việc của họ nếu được tuyển dụng.

H5: Một bài tập thể lực đối với những cô gái muốn trở thành “Nữ thần cứu hộ”. H6: Những hình ảnh gây xôn xao truyền thông và dư luận Trung Quốc.

9 Thieu lam 3

H7: Một võ sư trẻ được cử đến từ Thiếu Lâm Tự để giúp các cô gái luyện tập võ công trước khi trải qua bài thi sát hạch. H8: Quang cảnh một buổi luyện tập của các thầy trò. H9: Những buổi luyện tập vất vả trước kỳ thi sát hạch.

Thiếu Lâm Tự giờ đã bị “thương mại hóa”?

Trong lịch sử tồn tại của Thiếu Lâm Tự, trong hơn hai thập kỷ trở lại đây, ngôi chùa vốn sản sinh ra môn võ Thiếu Lâm đã dần trở thành một “đế chế võ thuật mang đầy tính thương mại”. Sự chuyển mình này của Thiếu Lâm Tự vốn vẫn luôn gây tranh cãi, người cho rằng đây là việc làm có công, cũng có người cho rằng có tội, chưa thể phân xử rõ ràng.9 Thieu lam 4

Từ lâu, Thiếu Lâm Tự vốn đã trở nên nổi tiếng với người yêu phim võ thuật trên khắp thế giới với những bộ phim làm về các đệ tử Thiếu Lâm, sử dụng bối cảnh Thiếu Lâm Tự, như “Thiếu Lâm ngũ tổ” (1974), “Thiếu Lâm tam thập lục phòng” (1978), “Thiếu Lâm thập tam côn tăng” (1980), “Thiếu Lâm Tự” (1982), “Đội bóng Thiếu Lâm” (2001)…

Giới tu hành và cả dư luận Trung Quốc vốn vẫn luôn tranh cãi về việc ngôi chùa cổ và môn võ Thiếu Lâm đã và đang trở thành “món hàng thương mại”, trong khi đó người tu hành vốn được cho là phải tránh xa “tham, sân, si”.

Tuy vậy, giờ đây, cái tên Thiếu Lâm Tự đã thường xuyên được đặt bên cạnh những chiến dịch PR, quảng cáo, để tăng thêm sức hút cho các sự kiện, thương hiệu.

Thiếu Lâm Tự được xây dựng từ cuối thế kỷ 5, những người trụ trì ngôi chùa này trước đây đều phản đối kịch liệt việc thương mại hóa ngôi chùa và môn võ Thiếu Lâm với niềm tin rằng đây là cách tốt nhất để bảo tồn những giá trị di sản của Thiếu Lâm Tự, cũng như giáo lý của họ. Nhưng giờ đây, điều này đã thay đổi, gây nên nhiều tranh cãi.

Vo hiepGiờ đây, Thiếu Lâm Tự không chỉ nổi tiếng về võ thuật mà còn nổi tiếng là ngôi chùa tham gia đủ loại hình kinh doanh, từ đóng quảng cáo cho tới trình diễn võ thuật trong các tour lưu diễn, mở trường dạy võ thu học phí… Và như trên đây, họ còn sẵn sàng cử võ sư tới tham gia những khóa đào tạo huấn luyện rất thu hút sự quan tâm của dư luận như thế này.

Tất cả những người phản đối hướng đi này đều cho rằng một ngôi chùa thì không nên điều hành theo kiểu một doanh nghiệp, bởi chùa chiền đã được mặc định là nơi chốn của tâm linh, thanh tịnh, tránh xa mọi thị phi, bon chen thường thấy ngoài cuộc đời. Việc nhà sư, chùa chiền cũng tham gia kinh doanh, thu lợi là đi ngược lại quan niệm truyền thống. (theo Bích Ngọc tổng hợp)

Yên Huỳnh chuyển tiếp